****************
"Tôn giáo của
tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều
và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên,
đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi
lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các
điều kiện đó". [Albert Einstein].
1. Nhân cách vĩ đại của Ðức Phật:
Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà
Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển
tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái
yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản của đức
Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [Giáo sư Max Miller, Học
giả người Ðức].
Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi
đức Phật trong cơn tức giận, chưa từng có một lời thô bạo được thấy trên môi đức
Phật kể cả trong lúc tình cờ. [- Tiến Sĩ S. Radhakrishnan].
Ðiều đáng chú ý nhất nơi đức Phật là sự kết hợp gần
như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ
tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật, vì Ngài là người duy nhất
tiêu biểu cho lương tâm của nhân loại. [Moni Bagghee, "Ðức Phật Của Chúng
Ta"].
Các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân
thành, đơn độc, một mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ
không phải là thần kỳ, tôi cảm thấy có một Người, đó là Ngài. Ngài đã gửi bức
thông điệp cho nhân loại hoàn vũ. Có nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của
chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài, tất cả những đau khổ,
bất mãn trong cuộc sống, theo Ngài dạy: là do lòng ích kỷ. Lòng ích kỷ có ba dạng:
- Một là tham vọng thỏa mãn cảm giác; - Hai là tham vọng muốn bất tử; - Ba là
tham vọng thành công và trần tục. Con người trước khi có thể trở nên thanh tịnh,
người đó phải ngưng sống theo giác quan hoặc cho riêng chính mình.
Rồi con người đó mới trở thành một bậc đại nhân. Ðức
Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Christ, đã dạy con
người đức tính vị tha. Trong một số chiều hướng Ngài rất gần gũi với chúng ta
hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Ðức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn
Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ hồ đối với vấn đề trường
tồn bất tử của kiếp nhân sinh. [- H.G. Wells].
Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần
gủi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Ðường lối, là Chân lý
và là Lẽ sống. [- Giám mục Milman].
2. Trí tuệ siêu việt của Đức Phật:
Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, đức Phật tuyên
bố sự giải thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình trong đời
sống của mình trên thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay thánh
thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn, giác
ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết
của kiến thức, vì không có trí tuệ thì siêu linh nội tâm không xâm nhập trong đời
sống của Ngài được. [- Giáo Sư Eliot, "Phật giáo và Ấn Ðộ giáo"].
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao,
Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức
của các "Thần linh và Người". Kiến thức của Ngài rất rõ ràng và độc lập
không liên can gì đến thần thoại và hoang đường. Tuy nhiên, nơi đây lại còn cho
thấy một hình thức vững vàng, tự nó biểu lộ được một cách rõ ràng và hiển nhiên
để cho con người có thể theo Ngài. Vì lý do đó, đức Phật không đòi hỏi phải tin
nhưng hứa hẹn kiến thức. [- George Grimm, "Giáo Lý của đức Phật"].
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, đức Phật
khuyến dụ, khẩn cầu và kêu gọi con người không nên làm hại một sanh mạng, không
nên dâng lời cầu nguyện, lời ca tụng, hay hy sinh (sanh mạng) cho các Thần
linh. Với tất cả tài hùng biện trong sự thuyết giảng của Ngài, đấng Vô Thượng
Sư có lần hùng hồn tuyên bố là Thần linh, nói cho đúng, cũng cần đến sự giải
thoát cho chính họ. [Giáo Sư Rhys Dadis].
Ðức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy
con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải
thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải
giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những
lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình. [- Tiến Sĩ
Oldenburg, Một học giả Ðức].
Dường như người thanh niên bất diệt, hiền lành, ngồi
khoanh chân trên hoa sen thanh tịnh với bàn tay phải dơ lên như khuyên nhủ như
trả lời: "Nếu con muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi, con hãy luyện tập
trí tuệ và từ bi". [Anatole France].
Sự khác biệt giữa đức Phật và một người bình thường
giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và một người mất trí. [- Một
Văn Hào].
Nếu chúng ta hỏi, chẳng hạn, có phải vị trí một hạt
nhân điện tử lúc nào cũng giữ nguyên không thay đổi, chúng ta phải trả lời
"không"; nếu chúng ta hỏi có phải vị trí của một hạt nhân điện tử
thay đổi theo thời gian, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta
hỏi có phải hạt nhân đó đang di động, chúng ta phải trả lời "không".
Ðức Phật cũng đã giải đáp như vậy khi có người hỏi tình trạng bản ngã của con
người sau khi chết; nhưng những câu trả lời như trên không phải là những câu trả
lời quen thuộc theo truyền thống khoa học ở thế kỷ 17 và 18. [J.Robert
Oppenheimer].
Nếu một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó phải
được giải quyết trong hài hòa và dân chủ theo đường lối dạy bảo của đức Phật.
[- Tổng thống Nehru].
3. Cống hiến của Đức Phật với nhân loại:
Trong thế giới giông tố và xung đột, hận thù và bạo
lực, thông diệp của đức Phật sáng chói như vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ không
bao giờ thông diệp của Ngài lại thiết yếu hơn như trong thời đại của thế giới
bom nguyên tử, khinh khí ngày nay. Hai ngàn năm trăm năm qua đã tăng thêm sanh
khí và chân lý của thông điệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức thông điệp bất diệt
này và hãy cố gắng thi triển tư tưởng và hành động của chúng ta trong ánh sáng
giáo lý của Ngài. Có thể chúng ta phải bình thản đương đầu cả đến với những khủng
khiếp của thời đại nguyên tử và góp phần nhỏ trong việc khuyến khích nghĩ đúng
(Chánh tư duy) và hành động đúng (Chánh nghiệp). [Tổng thống Nehru].
Trên quả địa cầu này, Ngài đem ý nghĩa những chân
lý giá trị trường cữu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn độ mà
cho cả nhân loại. Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có
trên hoàn vũ. [Albert Schweizer, một nhà lãnh đạo triết học Tây Phương].
Sự thanh tịnh của tâm linh và lòng thương yêu tất cả
sinh vật đã được dạy dỗ bởi đức Phật. Ngài không nói đến tội lỗi mà chỉ nói đến
vô minh và điên cuồng có thể chữa khỏi bởi giác ngộ và lòng thiện cảm. [- Tiến
Sĩ Radhakrisnan, "Ðức Phật Cồ Ðàm"].
Ðức Phật không phải là của riêng người Phật tử,
Ngài là của toàn thể nhân loại. Giáo lý của Ngài thông dụng cho tất cả mọi người.
Tất cả các tôn giáo khai sáng sau Ngài, đều đã mượn rất nhiều các tư tưởng hay
của Ngài. [- Một học giả Hồi Giáo].
Khi chúng ta đọc những bài thuyết giảng của đức Phật,
chúng ta cảm kích bởi tinh thần hợp lý của Ngài. Con đường đạo đức của Ngài
ngay trong quan điểm đầu tiên là một quan điểm thuần lý. Ngài cố gắng quét sạch
tất cả những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nhìn và định mệnh của
nhân loại. [Tiến Sĩ S.Radhakrisnan,"Ðức Phật Cồ Ðàm"].
Ðức Phật là người cha nhìn thấy đàn con đang vui
chơi trong ngọn lửa thế tục nguy hiểm, Ngài dùng mọi phương tiện để cứu các con
ra khỏi ngôi nhà lửa và hướng dẫn chúng đến nơi an lạc của Niết bàn. [- Giáo sư
Lakshimi Narasu, "Tinh Hoa Của Phật giáo"].
4. Giáo pháp của Đức Phật:
Ðọc một chút về Phật giáo là đã biết rằng hai ngàn
năm trăm trước đây, người Phật giáo đã hiểu rõ xa hơn và đã được thừa nhận về
những vấn đề tâm lý hiện đại của chúng ta. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này từ
lâu và đã tìm thấy câu trả lời. [- Tiến Sĩ Graham Howe].
Phật giáo chưa bao giờ ép ai theo dù dưới hình thức
nào - hoặc ép buộc ý tưởng và niềm tin đối với người không thích, hoặc bằng bất
cứ một sự tâng bốc nào, bằng lừa gạt hay ve vãn, hầu đoạt được thắng lợi để gia
nhập vào quan điểm riêng tư của mình. Những nhà truyền giáo của đạo Phật không
bao giờ thi đua để dành người quy nạp vào Ðạo như nơi chợ búa. [- Tiến sĩ G. P.
Malasekara].
Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là
tôn giáo này thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân
một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Nhờ đến sức mạnh
và tiền bạc hay cả đến sự chinh phục để tác động mọi người vào đạo thì sao? Ðức
Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết định nếu
muốn theo tôn giáo này. [- Giáo Sư Lakshmi Nasaru, "Tinh Hoa của Phật
giáo"].
Không thể cho rằng Phật giáo bị suy yếu, ngay hiện
tại, vì Phật giáo bắt nguồn trên những nguyên tắc cố định chưa bao giờ bị sửa đổi.
[- Gertrude Garatt].
Mặc dù người ta có thể được thu hút từ nguyên thủy
bởi sự khoáng đạt của tôn giáo này nhưng người ta chỉ có thể tán dương giá trị
thực sự của Phật giáo khi người ta phán xét kết quả tạo ra của tôn giáo này
thông qua đời sống của chính mình từ ngày này qua ngày khác. [- Tiến Sĩ Edward
Conze, Một học Giả Phật giáo Tây Phương].
Phật giáo là một tôn giáo tự giác, ít lễ nghi. Một
hành động được thực thi với chính sự suy tư thì tự nó đã điều kiện hóa để không
còn là một nghi lễ. Phật giáo nhìn bề ngoài có vẻ nhiều nghi lễ nhưng thực ra
không phải như vậy. [- Tiến sĩ W.F.Jayasuriya, "Tâm lý và Triết lý Phật
giáo"].
Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan
sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một
tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát
chánh đạo và Tứ diệu đế của đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời
tôi theo con đường đó. [Giáo sư Rhys Davids].
Trên những giải đất mênh mông của thế giới, vận mệnh
nhân loại vẫn còn tồn tại. Rất có thể trong sự tiếp xúc với khoa học Tây phương
và cảm hứng bởi tinh thần lịch sử, giáo lý căn bản của Ðức Cồ Ðàm được phục
hưng và thuần khiết, có thể chiếm một vị trí phần lớn trong hướng đi của vận mệnh
nhân loại. [- H.G.Well].
Lý thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay
không bị ảnh hưởng bởi tiến trình của thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn
giữ nguyên như lúc ban đầu bầy tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng tiến đến thế
nào trên chân trời trí óc của con người, trong phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng
vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám phá xa hơn nữa. Về phương diện thu
hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái niệm giới hạn của các tư tưởng sơ
khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ thuộc vào những phủ định của tư
tưởng. [- Francis Story, "Phật giáo, Một Tôn Giáo Thế Giới"].
Phật giáo là một phương thức làm sao để đạt được lợi
lạc cao nhất từ cuộc sống. Phật giáo là một tôn giáo của trí tuệ mà ở đấy kiến
thức và thông minh chiếm ưu thế. Ðức Phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ
mà là để soi sáng người nghe. [- Một Văn Hào Tây Phương"].
"Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu
cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan
điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo
không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo
bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học".
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo
toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải
bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo
lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể
đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". [Albert
Einstein].
ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét