Hiển thị các bài đăng có nhãn Khác. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khác. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2022

Hay!!!

Chỗ này là để đăng những câu chuyện hay, những vấn đề đáng suy gẫm!!!

Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2016

8 kiểu đặt ngón tay sau hay còn gọi là thủ ấn sẽ mang đến những lợi ích bất ngờ cho sức khỏe.

Xem nguon o day

1. Gyan Mudra
Đặt ngón tay ở các tư thế này và bạn sẽ không tin vào những gì xảy ra sau đó đâu - Ảnh 1.
Cách thủ ấn này còn được xem là mudra của sự hiểu biết, bởi nó giúp tăng sức mạnh của sự tập trung, trí nhớ và còn giúp não bộ nhạy bén hơn.
Bên cạnh đó, Gyan Mudra còn chữa chứng mất ngủ và nếu thực hiện thường xuyên sẽ giúp giảm tình trạng rối loạn tâm lí, tinh thần như giận dữ, buồn bã, lo lắng, căng thẳng...
Để bài tập Gyan Mudra có hiệu quả nhất, bạn nên tập vào buổi sáng sớm, khi tâm trí còn minh mẫn, sáng suốt và ai cũng có thể tập bài tập này.
Cách tập: đầu ngón tay cái và ngón trỏ chạm nhau, ba ngón còn lại giữ thẳng hoặc để tự do.

2. Vayu Mudra
 Đặt ngón tay ở các tư thế này và bạn sẽ không tin vào những gì xảy ra sau đó đâu - Ảnh 2.
Vayu Mudra sẽ giúp cân bằng luồng khí trong cơ thể, giải thoát khí dư khỏi cơ thể, giảm thấp khớp, đau cổ.
Với bài tập này, bạn có thể tập trong tư thế đứng, ngồi hoặc nằm. Đầu tiên, ngó trỏ gập lại và lúc này, dùng ngón cái nhấn vào đốt ngón thứ hai của ngón trỏ. Ba ngón tay còn lại cố gắng giữ thẳng.
Các chuyên gia yoga thiền khuyên rằng khi đã đạt được mục đích luyện tập của Vayu Mudra thì nên dừng lại, bởi việc tập luyện trong thời gian dài có nguy cơ gây ra mất cân bằng trong cơ thể.

3. Agni Mudra
Đặt ngón tay ở các tư thế này và bạn sẽ không tin vào những gì xảy ra sau đó đâu - Ảnh 3.
Cách thủ ấn này giúp hòa tan chất béo, thúc đẩy sự trao đổi chất, tiêu hóa, hạn chế nguy cơ béo phì.
Bên cạnh đó, Agni Mudra còn cải thiện sức khỏe rất hiệu quả, giảm căng thẳng, mệt mỏi và quan trọng là giúp kiểm soát lượng cholesterol trong cơ thể rất tốt.
Agni Mudra nên được tập vào sáng sớm lúc còn đói bụng và ai mắc bệnh khó tiêu thì không nên tập thủ ấn này.
Để tập động tác này, đầu tiên bạn gập ngón áp út rồi lấy ngón cái nhấn vào đốt thứ hai của ngón áp út, các ngón tay còn lại giữ thẳng.
Mỗi khi tập động tác thủ ấn này nên giữ nguyên tư thế ít nhất 15 phút mỗi ngày.

4. Prithvi Mudra
Đặt ngón tay ở các tư thế này và bạn sẽ không tin vào những gì xảy ra sau đó đâu - Ảnh 4.
Prithvi Mudra giúp cải thiện, thúc đẩy quá trình lưu thông máu trong cơ thể.
Cải thiện hệ xướng yếu. Những ai đang muốn tăng cân nên tập thủ ấn này bởi Prithvi Mudra có tác dụng kích thích tăng cân.
Bên cạnh đó, về mặt tinh thần, Prithvi Mudra giúp tăng tính kiên nhẫn, sức chịu đựng, tập trung, giảm thiểu tình trạng kiệt sức, trì trệ của tinh thần.
Quan trọng hơn, thủ ấn này còn giúp bạn sở hữu làn da đẹp mịn màng, tươi trẻ.
Đầu tiên, bạn ngồi tư thế hoa sen, hai bàn tay giữ thẳng, đặt ngửa trên đầu gối. Sau đó, chạm đầu ngón cái vào đầu ngón tay áp út rồi giữ chặt, những ngón còn lại giữ thẳng.
Tư thế này có thể tập vào mọi lúc trong thời gian tùy thích.

5. Varun Mudra
Đặt ngón tay ở các tư thế này và bạn sẽ không tin vào những gì xảy ra sau đó đâu - Ảnh 5.
Với những ai còn đang loay hoay tìm phương pháp cải thiện làn da thì nên tập thủ ấn này càng sớm càng tốt.
Lí do là vì Varun Mudra giúp cân bằng nước trong cơ thể, kích hoạt chất lỏng lưu thông, giữ ẩm cho cơ thể, chữa các vấn đề về da như nhiễm khuẩn da, và ngăn ngừa mụn.
Bên cạnh đó, Varun Mudra còn giúp giảm những cơn đau cơ vốn vẫn hay hành hạ bạn.
Varun Mudra không quy định thời gian tập, thế nên bạn có thể áp dụng bất kì lúc nào mình muốn.
Việc bạn cần làm chỉ là chạm ngón tay cái vào đầu ngón tay út mà thôi, các ngón tay còn lại vẫn giữ thẳng.
Trong khi tập, bạn cần lưu ý tranh nhấn vào phần gần mong tay út bởi sẽ gây ra tình trạng mất nước của cơ thể.

6. Shunya Mudra
Đặt ngón tay ở các tư thế này và bạn sẽ không tin vào những gì xảy ra sau đó đâu - Ảnh 6.
Tư thế này có thể giúp bạn thoát khỏi những cơn đau bằng cách thư giãn toàn bộ cơ thể. Bên cạnh đó, Shunya Mudra còn giúp giảm hoàn toàn chứng đau tai trong khoảng 5 đến 10 phút.
Theo các chuyên gia yoga thiền, thủ ấn này rất có tác dụng với những người bị điếc, nhưng với trường hợp điếc bẩm sinh thì thủ ấn này không mang lại hiệu quả.
Bạn chỉ cần lấy ngón cái nhấn vào đốt thứ hai của ngón giữa, những ngón khác vẫn giữ thẳng. Khi các triệu chứng bệnh đã hết thì không cần tập thủ ấn này nữa.

7. Surya Mudra
Đặt ngón tay ở các tư thế này và bạn sẽ không tin vào những gì xảy ra sau đó đâu - Ảnh 7.
Với những ai đang quan tâm đến việc giảm cân đều có thể tập thủ ấn này. Ngoài ra, Surya Mudra còn giúp giảm cholesterol, tăng khả năng tiêu hóa và giảm tình trạng căng thẳng, lo lắng.
Để thực hiện được động tác này rất đơn giản, bạn chỉ việc gập ngón áp út lại rồi dùng ngón tay cái nhấn vào đốt thứ hai của ngón áp út.

8. Prana Mudra
Đặt ngón tay ở các tư thế này và bạn sẽ không tin vào những gì xảy ra sau đó đâu - Ảnh 8.
Đây có thể xem là một trong những động tác thủ ấn quan trọng của yoga thiền bởi nó giúp kích hoạt năng lượng trong cơ thể và tăng cường hệ miễn dịch.
Bên cạnh đó, Prana Mudra còn giúp khỏe mắt, chữa bệnh về mắt và giảm căng thẳng, mệt mỏi.
Đầu tiên, bạn ngồi ở tư thế hoa sen, sau đó chạm đầu ngón tay áp với ngón út vào đầu ngón tay cái.
(Nguồn: healthtipssource, stylecraze)


Thứ Hai, 22 tháng 6, 2015

Thế nào là người giác ngộ?



1. Người giác ngộ là người như thế nào? À, đó có thể là người nam hoặc người nữ. Bạn có thể tìm thấy họ trong một tu viện hoặc một ngôi nhà ở ngoại ô, trong rừng hoặc ở trong một thị trấn nhỏ. Nhưng sự thật thì không có nhiều người trong số họ giác ngộ ở những nơi đó như nhiều người thường nghĩ. Không phải vì sự giác ngộ vốn quá khó khăn; mà sự thật đáng buồn là hầu hết con người không chịu quan tâm kéo mình ra khỏi vũng lầy của vô minh và tham đắm. 
 
2. Lúc đầu, bạn sẽ không nhận ra người giác ngộ trong một đám đông bởi vì họ khá trầm lặng và kín đáo. Nhưng khi mọi thứ bắt đầu trở nên sôi nổi, khi đó họ mới nổi bật. Khi người khác bị những cơn giận làm cho bừng cháy lên thì người giác ngộ vẫn lặng yên với tất cả tình yêu thương. Khi người khác đang ở trong tình trạng rối loạn vì những cơn khủng hoảng thì người giác ngộ vẫn bình tĩnh như trước đây. Trong một cuộc tranh giành điên rồ của nhiều người để đạt được nhiều như có thể, người giác ngộ sẽ là người lặng yên trong góc với gương mặt điềm tĩnh. Vị ấy bước đi một cách êm ả trên con đường gồ ghề, vị ấy kiên định giữa sự lay động. Đó không phải là vì vị ấy muốn tạo nên sự khác biệt, mà chính do sự giải thoát khỏi  lòng tham muốn đã làm cho vị ấy hoàn toàn độc lập và tự chủ. Nhưng lạ thay, mặc dù người khác không thể làm lay động vị ấy, nhưng sự bình tĩnh của vị ấy thì lại lay động được họ. Những ngôn từ hòa nhã của vị ấy đã hợp nhất những xung đột và thậm chí giúp những người đã nối kết với nhau gần nhau hơn. Người đau khổ, người sợ hãi và người lo lắng sẽ cảm thấy tốt hơn sau khi họ nói chuyện với vị ấy. Những động vật hoang dã cảm nhận được lòng từ bi trong trái tim của người giác ngộ và chúng không còn sợ hãi nữa. Ngay cả những nơi vị ấy cư ngụ, đó có thể là làng, rừng, đồi hoặc thung lũng, dường như có vẻ đẹp hơn, đơn giản chỉ bởi vì nơi đó có người giác ngộ.

3. Người giác ngộ luôn luôn không thể hiện một ý kiến hay bảo vệ một quan điểm nào, trên thực tế vị ấy dường như không có bất kì quan điểm nào, vì vậy người ta thường nhầm lẫn vị ấy là một người ngu xuẩn. Khi vị ấy không có sự khó chịu hoặc trả thù, sỉ nhục hoặc nhạo báng ai, thì người ta lại nghĩ có một cái gì đó không ổn trong vị ấy. Nhưng vị ấy không quan tâm những gì họ nghĩ. Vị ấy bị cho là ngớ ngẩn nhưng đó chỉ là vì vị ấy thích giữ im lặng hơn. Người giác ngộ làm như thể vị ấy bị mù nhưng thực chất là thấy rõ tất cả mọi thứ đang diễn ra. Mọi người nghĩ rằng vị ấy yếu nhưng thực sự là rất mạnh mẽ. Bất kể là vẻ bề ngoài thế nào, vị ấy luôn sắc bén như lưỡi dao cạo.

4. Khuôn mặt của người giác ngộ luôn luôn rạng rỡ và thanh thản bởi vì vị ấy không bao giờ lo lắng về những gì đã xảy ra ngày hôm qua hoặc những gì có thể xảy ra vào ngày mai. Từ dáng đi đến những động tác của vị ấy đều thanh nhã và tự tin bởi vì vị ấy có một lực chánh niệm tự nhiên trong mọi việc vị ấy làm. Giọng nói của vị ấy thì thu hút và ngôn từ thì tao nhã, rõ ràng, và xác đáng. Người giác ngộ đẹp một cách tự nhiên vì đơn giản vị ấy không làm bất cứ điều gì trên gương mặt hay với ngoại hình hoặc tài hùng biện, mà mọi thứ xuất phát từ chất thiện lành bên trong vị ấy.

5. Có thể người giác ngộ có một ngôi nhà, nhưng nếu nó bị đốt cháy vào ngày mai thì vị ấy sẽ di chuyển đến một nơi khác và ở ngay đó một cách thoải mái. Vị ấy có thể ở bất cứ nơi đâu. Ngay cả những người cố gắng cắt giảm số lượng hoặc những thứ mà họ có, họ dường như luôn luôn có quá nhiều. Còn người giác ngộ thì dường như luôn biết đủ dù có ai cho bao nhiêu đi chăng nữa. Đúng vậy, vị ấy cũng tìm kiếm những nhu cầu cần thiết của cuộc sống như bao nhiêu người khác, nhưng vị ấy chỉ nhận những gì mà mình cần và những nhu cầu của vị ấy thì rất nhỏ. Cuộc sống của vị ấy thì gọn gàng và đơn giản và vị ấy hài lòng với những gì xảy ra trên con đường của mình. Thực phẩm thực sự của vị ấy là hỷ, thức uống thực sự của vị ấy là chân lý, ngôi nhà thực sự của vị ấy là sự tỉnh thức.

6. Người bình thường thì ồn ào như tiếng suối chảy róc rách trong khi người giác ngộ thì yên lặng như độ sâu của đại dương. Vị ấy yêu thích sự tĩnh lặng và vị ấy nói với tinh thần tán dương sự yên tĩnh. Nói như vậy, tôi không có ý nói là vị ấy không bao giờ mở miệng. Vị ấy quá hạnh phúc khi nói về Giáo Pháp cho những người thích quan tâm lắng nghe, mặc dù vị ấy không bao giờ thuyết giảng và vị ấy sẽ không bị thu hút vào những cuộc luận đàm hay tranh cãi. Hơn nữa, bởi vì vị ấy không nói vượt qua ngoài giới hạn những gì mà vị ấy chắc chắn biết, tất cả mọi thứ vị ấy nói đều mang tính xác thực mà cả “những chuyên gia” cũng khó có thể sánh bằng.

7. Tâm của người giác ngộ thì không lộn xộn với những ý nghĩ và cũng không phải là không hoạt động. Khi vị ấy cần ý tưởng thì vị ấy suy nghĩ và khi vị ấy không cần thì vị ấy để tâm trong trạng thái yên lặng. Đối với vị ấy, tư tưởng là một công cụ chứ không phải là một vấn đề. Vị ấy vẫn có những kí ức, những cảm xúc và những ý tưởng nhưng vị ấy không bị lay động bởi chúng. Đối với vị ấy chúng chỉ là những ảo tưởng huyền diệu. Vị ấy quan sát chúng khi chúng khởi lên, khi chúng tiếp tục tồn tại, và khi chúng mất đi. Tâm của vị ấy giống như bầu trời trống không trong sáng – những đám mây trôi giạt qua nhưng nó vẫn cứ cao rộng, tinh khôi và không thay đổi.

8. Mặc dù người giác ngộ luôn trong sáng trong tất cả mọi việc, nhưng vị ấy không nghĩ rằng mình là tốt hơn, tốt bằng hay thua kém đối với bất kì người nào khác. Những người khác thì cứ là những người khác, ở đây không có nhu cầu phán đoán hay so sánh. Vị ấy thì không ủng hộ hay phản đối bất cứ ai hay bất cứ điều gì. Vị ấy không thấy những điều trong giới hạn của thiện và ác, thanh tịnh và bất tịnh, thành công và thất bại nữa. Vị ấy hiểu rõ thế giới nhị nguyên và vượt thoát ra khỏi nó. Vị ấy cũng đã thoát ra ngoài ý tưởng của luân hồi và niết bàn. Vượt thoát ngoài mọi thứ, vị ấy tự do đối với mọi thứ. Không tham muốn, không sợ hãi, không tưởng tượng và không lo lắng.

9. Trước đó không lâu, người giác ngộ cũng lúng túng và không hạnh phúc như những người khác. Vậy làm thế nào vị ấy có được cách mà vị ấy có ? Thực sự rất đơn giản. Vị ấy dừng lại việc tìm kiếm nguyên nhân của tất cả đau khổ bên ngoài và bắt đầu nhìn vào bên trong bản thân mình. Khi nhìn, vị ấy thấy rằng những điều mà vị ấy đã nhận là mình và đã chấp chặt, như thân thể, tình cảm, cảm xúc, ý tưởng và những vấn đề, tất cả đều không phải là của mình. Và khi đó, vị ấy buông xả. Không còn vướng mắc vào những điều không thật nữa, vị ấy thấy sự thật, thấy lẽ không sanh, không thành, không tạo, không tác. Bây giờ vị ấy an trú trong tự do vô tướng rỗng không đó và vị ấy hạnh phúc trong tất cả các thời. Vì lý do đó mà chúng ta khó phân biệt người giác ngộ. Những người khác thì cố gắng phân loại họ bằng việc gọi họ là một vị thánh, một vị A-la-hán hoặc thậm chí đôi khi gọi là một kẻ ngu ngốc. Trái lại vị ấy chỉ cười với những danh hiệu này và đề cập đến bản thân như “một người tầm thường”. Làm thế nào bạn có thể gắn danh hiệu cho một người đã vượt qua mọi ranh giới?

10. Bởi vì vị ấy đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và không có gì thêm để thực hiện, người giác ngộ dành phần lớn thời gian ngồi yên lặng chú ý đến những việc của mình. Đối với người bình thường thì cuộc sống của người giác ngộ có vẻ giống như một người đần độn.“Hãy cho tôi một chút sôi động, một chút khác biệt” họ nói vậy. Nhưng tất nhiên khi họ có được sự phấn khích hoặc nhiều loại mà họ không thích – bệnh tật, thất bại, sự hắt hủi hay tử vong – thì họ rơi vào tuyệt vọng. Lúc đó, người giác ngộ mới bước tới để giúp đỡ và chữa lành một cách thầm lặng. Và bởi vì vị ấy có nhiều thời gian nên vị ấy có thể dành trọn phần mình cho người khác. Vị ấy tiếp xúc với mọi người bằng tất cả tình yêu thương.


11. Vị ấy cảm thấy hạnh phúc để chờ một cơ hội tốt như thế cho đến khi kết thúc và khi cái chết cuối cùng diễn ra, vị ấy ra đi mà không sợ hãi và  cảm thấy không hối tiếc. Sau khi chết thì điều gì xảy ra đối với người giác ngộ ? Nhiều học giả đã tranh cãi về điều này trong nhiều thế kỉ. Nhưng bạn không thể tìm thấy nơi mà người giác ngộ đã đi, cũng như bạn không thể tìm thấy đường đi của một con chim đang bay tự do trên bầu trời. Chết cũng giống như sống, Người Vô Tích đến và đi đều không để lại dấu vết nào.

Shravasti Dhammika

Vĩnh Thuỵ dịch
Xem nguồn bài viết ở đây.

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Cậu bé, sau 12 năm sống đời thực vật, khi tỉnh lại nói rằng: "Tôi vẫn ý thức được mọi chuyện."

Bây giờ người đàn ông 39 tuổi ấy kể về kinh nghiệm 12 năm sống thực vật của mình như sau: Tôi vẫn ý thức mọi chuyện như tất cả những người bình thường khác. Tôi nghe được những lời khó nghe mà mẹ tôi nói với tôi. Bà bảo tôi hãy chết đi. Tôi thấy rằng những người xung quanh tôi không ai thương tôi cả. Và tôi cũng ý thức rằng mình sẽ chịu cảnh này suốt đời - hoàn toàn cô độc. Tôi chỉ thấy rằng mình bị mắc kẹt trong cơ thể tật nguyền này. Tôi ghét cả Barney, người chăm sóc tôi ở Trung Tâm Chăm sóc mà mỗi ngày bố tôi chở tôi dến vào mỗi sáng và mang tôi về nhà vào buổi chiều. Họ lăn tôi như thể tôi là cái cây mỗi khi họ muốn trở mình cho tôi. Tôi ghét họ.

Đây được xem là một khám phá "kinh khủng" đối với khoa học, thay đổi hoàn toàn cái nhìn của họ đối với những người sống thực vật. Đừng tưởng họ sống thực vật nghĩa là họ không biết gì.

Hihihihihi, đối với đạo Phật thì cái này xưa rồi. Thế mới biết khoa học luôn theo đuôi đức Phật là vậy đó. Ai muốn đạt giải Nobel về khoa học thì cứ lấy những gì được nói đến trong kinh Phật và chứng minh bằng khoa học thực nghiệm là có giải thưởng liền thôi!

Ngay cả nhà khoa học vĩ đại Albert Einstein mà còn phải thốt: "Nếu những phát hiện khoa học của tôi có chút ít lợi ích gì đó cho nhân loại thì cũng nhờ đạo Phật mà ra." Mọi người cứ theo cách làm của Einstein là trở thành nhà khoa học xuất sắc liền chứ gì.

Còn ai muốn có trí tuệ siêu việt hơn tất cả các nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại gộp lại, thì hãy trở thành Phật đi. Đơn giản thôi mà hihihihihihihi.

Xin mời mọi người xem câu chuyện gốc bằng tiếng Anh về cậu bé sống thực vật 12 năm ấy tại đây.

Thứ Bảy, 21 tháng 2, 2015

Người nhân hậu

Có lần, đại học Princeton Theological Seminary tại New Jersey làm một cuộc thử nghiệm. Họ muốn tìm hiểu tại sao trong cuộc sống, chúng ta có nhiều cơ hội để giúp người khác, nhưng có lúc ta hành động và có khi lại làm ngơ? Các vị giáo sư chọn một nhóm sinh viên trong một lớp thần học, gồm 40 người, và bảo rằng mỗi người sẽ phải chuẩn bị một bài thuyết trình về một dụ ngôn nào đó trong kinh thánh. Và phân nửa trong số sinh viên ấy được trao cho đề tài "Dụ ngôn người nhân hậu" (The Parable of the Good Samaritan).
Dụ ngôn người nhân hậu là một tỷ dụ, kể lại câu chuyện một người bị nạn nằm bên đường. Có những người nổi tiếng là tốt và đạo đức trong làng đi ngang qua, họ đều nhìn thấy anh nhưng tìm cách lẫn tránh, không một ai dừng lại để giúp đở. Cuối cùng một người xa lạ đã dừng lại để chăm sóc cho anh, người đó được gọi là một người nhân hậu.
Sau khi trả lời một số câu hỏi, mỗi sinh viên được yêu cầu đi gấp qua một lớp học ở bên kia đường, để thuyết minh về đề tài của mình cho các giám khảo đang ngồi chờ. Trên đường đi họ gặp một người đứng gục mình bên vệ đường rên rỉ và lộ vẽ đau đớn. Bạn nghĩ trong số sinh viên này, có ai dừng lại để giúp người ấy không? Và những sinh viên đang sắp sửa nói về "dụ ngôn của người nhân hậu" ấy, họ có hành xử gì khác biệt hơn những người kia không?
Kết quả của cuộc thử nghiệm là không có một ai dừng lại để giúp cả! Vì họ đang bận rộn và gấp rút với một việc cần phải làm, và cho dù trong đầu đang suy tư về vấn đề "nhân hậu", họ cũng không hành xử gì khác biệt hơn những người khác!

Thấy rõ mới chuyển hóa
Sau cuộc thử nghiệm này, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, nếu như ta quá bận rộn và gấp rút làm một việc gì đó, cho dù là những việc tốt, chúng ta sẽ không quan tâm đến người khác. Hoặc khi tâm ta đang chìm đắm trong một vấn đề nào đó, một công việc sắp phải làm, cho dù là việc tốt lành, nhân hậu, ta sẽ không thấy được thực tại đang có mặt ngay trước mắt mình.
Tôi thấy ngày nay, trên con đường tu học chúng ta thường muốn lập hạnh bồ tát giúp đời. Nhưng nhiều khi vì quá chú tâm vào những việc lớn lao, mà mình có thể vô tình không thấy được những ham muốn, giận hờn, nhỏ nhen trong ta, ngay trước mắt. Mà thật ra chính chúng mới là nguyên nhân cho sự có mặt của những khổ đau trong cuộc đời. Sự thận trọng có khả năng giúp ta trở về với thực tại, để thấy rõ những gì đang thật sự xảy ra khi phiền não có mặt.
Bạn biết không, tôi có một người bạn chia sẻ có những lần chị đã vô tình làm ngơ trước khổ đau của người khác, vì phải bận đến giờ công phu, hay vì không muốn lỡ thời khóa thiền tập của mình… Tôi biết, chúng ta cũng cần phải chăm sóc cho chính mình. Nhưng nếu như sự tu tập của ta bị kẹt vào một khuôn mẫu nhất định nào đó, thì ta sẽ rất dễ quên đi những gì mới thật sự là chính yếu.
Mà thật ra, tôi nghĩ ta đâu cần phải chờ đến khi ngồi xuống nơi chiếc chiếu ngồi thiền, hoặc mở ra bài kinh tụng tối nay, mới là thực tập. Các vị thiền sư thường nhắc nhở rằng, sự chuyển hóa có mặt không phải vì ta biết chế tác hoặc cố gắng hành theo một phương cách đặc biệt nào đó, mà từ một thái độ tỉnh giác và trong sáng bên trong. Nơi nào ta biết sống thận trọng thì nơi đó cũng đang có sự chuyển hóa, phải không bạn?
Nguyễn Duy Nhiên.

Xem nguồn bài viết ở đây

Thứ Ba, 10 tháng 2, 2015

AṬṬHALOKADHAMMA - TÁM PHÁP THẾ GIAN



Ta có thể ví thế gian như cành hoa hồng với sắc dịu dàng, đẹp đẽ và mùi thơm ngào ngạt. Nhưng cành hồng thì luôn đầy gai góc. Với người lạc quan, thế gian này tươi đẹp như đóa hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy đời đầy gai chướng. Đối vối người có trí tuệ và hiểu biết thì thế gian không tuyệt đối tươi đẹp và cũng không hoàn toàn xấu xa. Họ chánh niệm phân biệt rạch ròi rằng hoa là hoa, gai là gai. Cái gì thuộc về hoa là của hoa. Cái gì thuộc về gai là của gai. Không vì hoa mà ta nhắm mắt lao bừa vào gai, nhưng cũng không vì sợ gai mà ta xa lánh hoa hồng.

Như quả lắc của đồng hồ, đánh qua trái rồi sang phải, phải rồi trở lại trái, luôn có bốn pháp toại nguyện và bốn pháp bất toại nguyện sảy đến trong đời sống mà tất cả mọi người ai cũng phải đón nhận. Chúng được ví như tám ngọn gió làm rung chuyển thế gian (tiếng Pāi là "Aṭṭhalokadhamma) đó là:

- Được (lābha) và thua (alābha),
- Danh thơm (yasa) và tiếng xấu (ayasa),
- Ca tụng (pasamsā) và khiển trách (nindā), 
- Hạnh phúc (sukha) và đau khổ (dukkha).

Trong kinh "Tùy Chuyển Thế Giới", Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Đức Phật dạy:
- Này các thầy Tỳ khưu, có tám pháp thế gian làm tùy chuyển thế giới. Thế nào là tám? Đó là: lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thán và chỉ trích, an lạc và đau khổ. 

Sau đó, Ngài thuyết bài kệ:
"Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Tán thán và chỉ trích
An lạc và đau khổ

Những pháp này vô thường
Không thường hằng, biến diệt
Biết chúng, giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt

Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Ðược tiêu tan không còn.

Sau khi biết con đường
Không trần cấu, không sầu
Chân chính biết sinh hữu
Ði đến bờ bên kia."

Ngài giảng rằng khi chúng ta gặp phải một trong tám pháp ấy (lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, không danh vọng, tán thán, chỉ trích, an lạc, đau khổ), chúng ta không nên bám theo các pháp toại nguyện và chúng ta cũng không nên sân hận với các pháp bất toại nguyện. Ta không nên để các điều đó ngự trị và lấn áp tâm trí mà nên nhận biết rõ ràng rằng: "Pháp này đang khởi lên nơi ta. Tuy nhiên, pháp ấy là vô thường, khổ, vô ngã", để có một thái độ bình thản, tỉnh giác. Hành giả tu tập trong chánh niệm tỉnh giác như vậy có thể an trú trong an bình tĩnh lặng, thoát khỏi mọi ô nhiễm ràng buộc và tiến đến bờ giải thoát.

1. Được và Thua (Lābha và Alābha)
Trên đường đời, chúng ta thường phải gặp cả hai điều: được và mất, hay nói cách khác, lợi lộc và thua lỗ. Dĩ nhiên, khi được lợi thì người ta thỏa thích, vui mừng. Nhưng đến khi thua lỗ thì phiền não bắt đầu khởi phát. Nhiều trường hợp thua lỗ nghiêm trọng làm cho người ta loạn trí, lắm khi nếu quá sức chịu đựng sẽ dẫn đến việc quyên sinh cả mạng sống của mình. Trong lúc vật lộn với đời sống, tất cả mọi người đều phải gặp những lúc thăng, lúc trầm, và chúng ta phải sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng đối phó, nhất là trong nghịch cảnh. Chính trong những hoàn cảnh như vậy, ta phải nuôi tinh thần dũng cảm và giữ tâm bình thản, không xao động trước các pháp đó.
Khi ta làm mất một vật gì, tất nhiên ta cảm thấy buồn. Nhưng điều đó không giúp ta tìm lại được vật đã mất. Ta phải nghĩ rằng ai đó có thể hưởng vật kia nên bằng tâm từ, ta mong người ấy được vui vẻ, an lành và hạnh phúc. Hoặc giả ta có thể tự an ủi: "Ðây chỉ là một mất mát nhỏ nhen, không quan trọng." Hoặc giả ta có thể chấp nhận một thái độ triết lý cao thượng: "Không có gì là 'Ta', 'Của Ta' hết".
Vào thời Đức Phật còn tại thế, có một thiếu phụ đến chùa Ngài Sāriputta để dâng vật thực trai Tăng. Trong khi chuẩn bị dâng vật thực đến các Ngài thì được tin chồng và tất cả các con bị người ta phục kích, giết chết lúc đang đi hòa giải một cuộc tranh chấp. Bà không tỏ vẻ buồn. Thản nhiên, bà lặng lẽ tiếp tục dâng cúng vật thực đến chư Tăng như không có gì xảy ra. Lúc ấy một người tỳ nữ bưng hũ mật và sữa để dâng chư Tăng chẳng may trượt chân ngã làm vỡ hũ mật
Nghĩ rằng có lẽ bà thí chủ sẽ tiếc cái hũ và thức ăn đựng trong đó, Ngài Sāriputta an ủi rằng các vật như cái hũ, đã mang tính chất dễ vỡ theo liền với nó, ắt một ngày nào đó cũng sẽ vỡ.
Bà tín nữ trí tuệ điềm tĩnh trả lời: "Kính bạch Đại Đức, đó chỉ là một mất mát bình thường. Con vừa nhận được tin chồng và các con của con bị kẻ sát nhân giết chết. Con vẫn giữ tâm bình thản, không bấn loạn. Và mặc dầu được tin dữ, con vẫn tiếp tục để bát Ngài và chư Tăng."
Đức quả cảm quý báu của người thiếu phụ quả thật đáng ca ngợi và đáng làm gương cho người khác.
Lần khác, Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại xứ Verañjā theo lời thỉnh mời của ông Bàlamôn Verañja. Trong lúc ấy, xứ Verañjā gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông, bởi vì, thiếu thốn vật thực, cho nên chư Tỳ khưu đi khất thực không được vật thực. Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư Tỳ khưu đi khất thực, nhưng không được gì, nên họ làm phước bố thí cúng dường lúa là phần vật thực để nuôi ngựa, giã thành gạo đỏ đem nấu cơm, mỗi ngày dâng cúng dường đến Đức Phật cùng chư Tỳ khưu; đặc biệt dâng cúng dường Đại đức Ānanda những món bơ, mật ong, đường..., để Đại đức Ānanda làm vật thực dâng cúng lên Đức Phật. Trong 3 tháng an cư nhập hạ đó, Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng phải chịu cảnh độ cơm nấu bằng gạo đỏ
Bà Visakha, vị nữ thí chủ quan trọng trong thời Đức Phật, thường đến chùa chăm lo mọi nhu cầu của Đức Phật và chư Tăng. Một hôm, bà đắp một cái áo choàng rất quý giá để đi chùa. Khi đến cổng chùa bà cởi áo choàng ra đưa cho người tỳ nữ cầm giữ. Lúc ra về, cô tỳ nữ vô ý bỏ quên lại. Ngài Ānanda thấy, đem cất lại một nơi, chờ bà Visakha đến sẽ trao lại. Về đến nhà sực nhớ, bà bảo người tỳ nữ quay trở lại tìm, nhưng nếu có vị tỳ khưu nào đã đụng đến thì không nên lấy về. Cô tỳ nữ đến chùa hỏi thăm, biết rằng Ngài Ānanda đã cất giữ hộ cái áo choàng nên trở về báo tin cho chủ. Bà Visakha liền đến hầu Đức Phật và tác ý bán cái áo choàng quý báu và cúng dường số tiền bán áo đó. Đức Phật khuyên bà nên lấy tiền bán áo kiến tạo một ngôi tịnh xá để chư Tăng có nơi cư trú. Vì không ai có đủ tiền mua cái áo choàng quý giá như thế nên chính bà mua lại, và dùng số tiền ấy xây dựng một ngôi tịnh xá đẹp đẽ, dâng đến chư Tăng. Sau khi dâng xong ngôi chùa bà ngỏ lời tri ân người tỳ nữ như sau: "Nếu con không lỡ bỏ quên cái áo choàng, ắt ta không có cơ hội tạo nên công đức nầy. Vậy, ta xin chia phần phước nầy đến con."
Thay vì buồn rầu hay phiền muộn vì tạm thời mất một vật quý giá, và la rầy người tỳ nữ vô ý, bà cảm ơn người ấy đã giúp bà có cơ hội tạo phước.
Thái độ gương mẫu của bà thiện trí thức Visakha đáng là một bài học cho những kẻ dễ nóng giận vì lỗi lầm của người giúp việc thân cô thế cô.
Ta phải dũng cảm chịu đựng những lỗ lã, thua thiệt, mất mát. Phải đương đầu với nó, và như câu "họa vô đơn chí" diễn tả, nó có thể đến một cách đột ngột, từng đoàn, từng đám đông, chớ không đơn độc. Ta phải điềm tĩnh đối phó, với tâm Xả (upekkhā) hoàn toàn, và nghĩ rằng: đây là cơ hội vàng ngọc để thực hành đức tính Xả ly cao thượng này.

2. Danh Thơm và Tiếng Xấu (Yasa và Ayasa)
Danh Thơm (Yasa) và Tiếng Xấu (Ayasa) là một cặp thăng trầm khác mà ta phải đối phó hằng ngày. Danh thơm chúng ta hoan hỷ đón mừng. Tiếng xấu thì chúng ta không thích. Danh thơm làm phấn chấn tinh thần. Tiếng xấu làm cho ta phiền muộn, khổ đau.
Chúng ta thích được nổi danh, chúng ta mong muốn thấy tên tuổi và hình ảnh mình trên báo, chúng ta rất thỏa thích thấy những hoạt động của mình, dầu không đáng kể, được tường thuật và được nhiều người nhắc nhở, nhiều người biết đến. Lắm khi ta cũng cố gắng, một cách bất chính, làm cho người ta chú ý đến mình.
Để thấy hình ảnh mình trên báo chí, vài người sẵn sàng trả một số tiền to tát. Để có được danh tiếng, nhiều người sẵn sàng đóng góp quan trọng, hay hối lộ nhóm người quyền thế. Để tự quảng cáo, vài người biểu dương tâm trong sạch bố thí của mình bằng cách trai tăng cả trăm vị tỳ khưu, hay hơn nữa. Nhưng có thể những người trên sẽ hoàn toàn thản nhiên trước nổi thống khổ của người nghèo nàn đói rách sống ngay bên cạnh mình. Ta có thể rầy la và hành phạt một tên trộm quá đói khát, vào vườn ăn cắp một trái dừa để làm dịu bớt cơn đói, nhưng ta sẽ không ngần ngại vung phí cả vườn dừa để đổi lại chút danh thơm.
Đó là khuyết điểm của con người. Chí đến khi làm điều thiện, phần đông chúng ta cũng làm với ẩn ý vụ lợi. Những người hoàn toàn vị tha rõ thật hiếm hoi trên thế gian nầy. Vì lẽ ấy, người nào đã làm một việc thiện - dầu động cơ thúc đẩy đến hành động không mấy đáng được ca ngợi - cũng được tán dương vì đã làm điều thiện ấy. Chúng ta không cần chạy theo danh thơm tiếng tốt. Nếu ta xứng đáng, ắt nó sẽ đến mà ta không cần tìm. Khi hoa đượm mật đầy đủ thì ong, bướm sẽ đến. Hoa không cần mời ong hay mời bướm.
Đúng thật vậy, chúng ta cảm nghe tự nhiên hoan hỷ, vô cùng hạnh phúc, khi thanh danh của chúng ta bay xa, lan rộng. Tuy nhiên, phải nhận định rằng tiếng tốt, danh vọng, vinh quang, chỉ theo ta đến nắm mồ, rồi tan biến ra mây, ra khói. Nó chỉ là những ngôn từ, mặc dầu là kim ngôn, là mỹ từ, làm êm dịu tai ta.
Còn tiếng xấu thì sao?
Chúng ta không thích nghe, hay nghĩ đến. Chắc chắn là khi những lời nói xấu lọt vào tai, nó sẽ làm cho tâm ta bàng hoàng, khó chịu. Nỗi khổ tâm càng xâu đậm hơn nếu những lời gọi là tường thuật hay báo cáo ấy tỏ ra bất công hay hoàn toàn sai lạc.
Thông thường phải mất cả năm trời, hay hơn nữa, để kiến tạo một ngôi nhà nguy nga vĩ đại. Nhưng chỉ trong nháy mắt khí giới có thể tàn phá, tiêu hủy dễ dàng. Lắm khi phải mất nhiều năm hay cả kiếp sống để gây dựng thanh danh nhưng bao nhiêu công trình lao khổ ấy có thể tàn rụi trong khoảnh khắc. Không ai có thể tránh khỏi câu nói tai hại bắt đầu bằng tiếng "nhưng". Thật vậy, ông ấy rất tốt, ông ấy đã làm việc nầy, điều kia. Nhưng... Phần đầu tốt đẹp của câu nói ấy đã bị cái "nhưng" đốt cháy thành tro bụi.
Nhưng cũng nên nhớ rằng cho dù ta có thể sống đời đạo đức trong sạch như một vị Phật, ta cũng không thể tránh những lời chỉ trích, tấn công và nguyền rủa. Ðức Phật là vị giáo chủ trứ danh nhất thời bấy giờ mà cũng thường bị những người ác ý tìm cách vu oan, ám hại, nói xấu.
Ta không nên phung phí thì giờ để đính chánh những lời đồn đãi sai lạc, nếu hoàn cảnh không bắt buộc ta phải làm sáng tỏ vấn đề. Kẻ thù nghịch sẽ lấy làm thỏa thích mà thấy ta bực bội vì lời nói của họ. Ðó chính là điều mà họ mong muốn. Nếu ta thản nhiên, lời vu oan sẽ rơi vào tai điếc.

Đức Thế Tôn dạy rằng:
"Hãy như sư tử, không run sợ trước tiếng động.
Hãy như luồng gió, không dính mắc trong màn lưới.
Hãy như hoa sen, từ bùn nhơ nước đục mọc lên,
Nhưng không bị nước đục và bùn nhơ làm ô nhiễm.
Hãy vững bước, đơn độc một mình, như con tê giác."

Là chúa sơn lâm nên sư tử không sợ hãi. Bản tính thiên nhiên của sư tử là không run rẩy giật mình khi nghe tiếng gầm thét của các loài thú khác. Trên thế gian này, chúng ta thường nghe thuật lại những câu chuyện trái tai, bất lợi, những lời buộc tội giả mạo, những tiếng vu oan phỉ báng đê hèn. Như sư tử, ta không cần để tâm đến.
Chúng ta đang sống trong thế gian bùn nhơ, nước đục. Nhiều đóa hoa sen đã từ đó vượt lên, tô điểm đời sống, mà không bị nước đục và bùn nhơ làm hoen ố. Chúng ta phải cố gắng sống như hoa sen, một cuộc đời trong sạch và cao quý, không màng quan tâm đến bùn nhơ mà người khác có thể ném vào ta. Phải sẵn sàng đón nhận bùn nhơ, mà người khác có thể ném vào mình, thay vì mong đợi những đóa hoa hồng mà người ta có thể tặng. Như thế, ta sẽ không thất vọng.
Mặc dầu là điều khó khăn, chúng ta phải cố gắng trau giồi hạnh từ khước, buông bỏ, không luyến ái. Không cần để ý đến nọc độc của những lời nói ác ý. Ðơn độc một mình, chúng ta hãy ra đi đó đây, tận lực phục vụ và tạo an lành cho kẻ khác.
Không nên phung phí thời giờ vô ích để sửa sai những lời đồn đãi sai lạc nếu hoàn cảnh không bắt buộc ta phải làm sáng tỏ vấn đề. Kẻ thù nghịch sẽ lấy làm thỏa thích mà mà ta bực bội vì lời nói của họ. Đó chính là điều mà họ mong muốn. Nếu ta thản nhiên, lời vu oan sẽ tan biến vào quên lãng.

Để thấy lỗi lầm của người khác, ta phải làm như người mù.
Để nghe lời chỉ trích người khác, ta phải làm như điếc.
Để nói xấu người khác, ta phải làm như người câm.

Không thể chấm dứt những lời buộc tội, Những tường thuật hay những lời đồn đãi sai lầm. Thế gian đầy chông gai và đá nhọn. Ta không thể dẹp sạch gai và đá. Nhưng nếu phải đi trên đó bất kể những trở ngại thì, thay vì dọn đá và gai - chuyện mà ta không thể làm - tốt hơn nên mang giầy và thận trọng đi từng bước. Chúng ta sẽ được an toàn.

3. Ca Tụng và Khiển Trách (Pasamsā và Nindā)
Ðược ca tụng và bị khiển trách là hai hoàn cảnh thăng trầm khác, hằng ảnh hưởng đến nhân loại. Lẽ dĩ nhiên, khi được ca tụng thì ta nở mặt nở mày, hân hoan thỏa thích. Lúc bị khiển trách thì tinh thần suy sụp, ủ dột buồn rầu. Ðức Phật dạy rằng giữa những lời ca tụng hay khiển trách, bậc thiện trí không thỏa thích, cũng không ủ dột ưu phiền, mà tựa hồ như tảng đá vững chắc, không lay chuyển dưới cơn bão táp phong ba của đời sống. Nếu chúng ta xứng đáng, những lời khen tặng quả thật êm tai. Nhưng nếu ta không xứng đáng, như trường hợp có người nịnh bợ, thì những lời ấy dù có êm tai, cũng sẽ làm cho ta thất vọng, và là một tai hại.
Người thực hành Giáo Pháp thì không tin vào những lời nịnh bợ, cũng không muốn được nịnh bợ. Khi khen tặng ai xứng đáng, người Hiền trí thật lòng khen tặng mà không ẩn ý ganh tị. Khi khiển trách, các Ngài khiển trách mà không ẩn ý khinh khi. Các Ngài chỉ khiển trách vì lòng bi mẫn, muốn cải thiện người lầm đường lạc nẻo.
Nhiều người thân cận với Đức Phật thường ca tụng phẩm hạnh Ngài, mỗi người một cách. Upali, một nhà triệu phú mới quy y với Đức Phật, kể ra hằng trăm đức tánh của Ngài. Chín hồng danh của Đức Thế Tôn thời bấy giờ người ta thường nhắc nhở, chí đến nay hàng tín đồ Phật Giáo vẫn còn đọc lên như kinh nhật tụng. Và mỗi lần tụng đến các phẩm hạnh cao quý ấy, chúng ta nhìn lên pho tượng trầm ngâm tự tại với tấm lòng kính mộ tôn sùng. Chín hồng danh ấy còn là đề mục hành thiền cho người có tâm đạo nhiệt thành và vẫn còn là nguồn gợi cảm quan trọng cho những ai tự xem mình là Phật Tử.

Còn khiển trách thì sao?
Đức Phật dạy: "Người nói nhiều bị khiển trách. Người nói ít bị khiển trách. Người lặng thinh cũng bị khiển trách."
"Người thế gian phần đông sống không kỷ luật" Đức Phật ghi nhận như vậy, và dạy tiếp: "Như voi chiến ở trận địa, hứng lãnh lằn tên mũi đạn từ mọi hướng dồn dập bắn đến, cùng thế ấy, Như Lai hứng chịu mọi nguyền rủa của thế gian."
Kẻ si mê lầm lạc chỉ tìm cái xấu, cái hư của người khác mà không nhìn cái tốt cái đẹp của ai. Ngoại trừ Ðức Phật, không có ai hoàn toàn tốt lành. Cũng không có ai hoàn toàn xấu ác. Giữa chúng ta, bên trong con người tốt nhất, cũng có phần hư hỏng. Trong con người xấu nhất, cũng có điểm tốt đẹp. Ðức Phật dạy rằng người nào biết câm lặng như cái mõ bể khi bị tấn công, nguyền rủa, chửi mắng, thì, mặc dầu chưa chứng ngộ Niết Bàn, người ấy cũng đã đứng trước Niết Bàn.
Ta có thể phục vụ nhân loại với tấm lòng cao cả nhất, nhưng người thế gian thường hiểu lầm và gán cho ta những mục tiêu, những lý tưởng mà chúng ta không bao giờ mơ đến.
Ta có thể tận lực phục vụ và giúp đỡ một người bạn trong cơ nguy ngập. Lắm khi muốn được việc, ta phải vay nợ hay bán cả đồ đạc, nhà cửa. Nhưng về sau, thế gian mê lầm này hư hỏng đến nổi người phục vụ kia trở lại phủ nhận lòng tốt của ta, phiền trách, nói xấu, bôi bẩn và sẽ thỏa thích thấy ta suy sụp.
Trong Túc Sanh Truyện có tích truyện một nhạc sĩ tên Guttila, hết lòng truyền dạy các đệ tử và không bao giờ dấu giếm điều gì. Tuy nhiên, có một người học trò vô ơn bạc nghĩa nọ cố tình làm đủ mọi cách để tranh giành ảnh hưởng với thầy. Về sau người đệ tử này thất bại.
Devadatta, đệ tử, vừa là em họ của Đức Phật, đã có thần thông, không những cố gắng làm mất thanh danh của Đức Thế Tôn mà còn mưu toan sát hại Ngài bằng cách lăn đá từ đỉnh núi cao xuống, trong khi Ngài ngồi hành thiền dưới chân núi.

Một lần nọ có người Bà La Môn cung thỉnh Đức Phật về nhà trai tăng. Theo lời thỉnh cầu, Đức Phật đến. Nhưng thay vì tiếp đón phải lẽ, người Bà La Môn tuông ra một loạt những lời lẽ thô kịch và nhơ bẩn vô cùng. Đức Phật lễ độ hỏi thăm:
- Này ông Bà La Môn, có khi nào khách đến nhà ông không?
- Có, ông Bà La Môn trả lời.
- Khi biết khách đến nhà ông làm gì?
- Tôi sẽ dọn một bữa cơm thịnh soạn để đãi khách.
- Nhưng nếu khách bận việc không đến thì sao?
- Thì gia đình chúng tôi sẽ chia nhau bữa cơm.
- Tốt lắm, này ông Bà La Môn, hôm nay ông mời Như Lai đến nhà để trai tăng và ông đã khoản đãi Như Lai bằng những lời nguyền rủa chửi mắng thậm tệ. Như Lai không nhận. Vậy xin ông vui lòng lấy trở lại.

Đức Phật không giận, không trả thù, nhưng Ngài lễ độ trao trả lại người Bà La Môn những gì người này đã khoản đãi Ngài.
"Không nên trả thù, không nên báo oán", Đức Phật khuyên dạy như vậy. Hận thù sẽ đối diện với hận thù. Báo oán, trả thù sẽ không bao giờ đưa đến hòa bình và an tĩnh. Sức mạnh chắc chắn phải đương đầu với sức mạnh. Bom đạn sẽ gặp bom đạn. "Sân hận sẽ không bao giờ dập tắt sân hận. Chỉ có tâm Từ mới diệt lòng sân." Đó là giáo từ của Đức Bổn Sư.
Không có vị giáo chủ nào được ca tụng và tôn sùng như Đức Phật. Tuy nhiên, Ngài cũng là vị giáo chủ bị chỉ trích, bị khiển trách và bị sỉ vả nhiều nhất. Đó là số phận của các bậc vĩ nhân.
Trước giữa đám đông một thiếu phụ tên Cincà giả làm người có mang, vu oan Đức Phật. Với gương mặt từ bi, Ngài nhẫn nại chịu đựng những lời nguyền rủa, và đức hạnh trong sạch của Ngài được chứng minh tỏ rõ.
Đức Phật cũng bị vu cáo là đã sát hại một thiếu phụ với sự đồng lõa của các vị đệ tử.
Lần kia những người khác đạo chỉ trích Ngài và các môn đệ với lời lẽ nặng nề đến độ Đại Đức Ananđa xin Ngài rời khỏi nơi đó để qua một làng khác.
- Này Ananđa, nếu những người ở làng kia cũng chửi mắng chúng ta nữa thì phải làm sao?
- Kính Bạch Đức Thế Tôn, chúng ta sẽ sang một làng khác nữa.
- Này Ananda, nếu làm như thế toàn thể lãnh thổ của xứ Ấn Độ sẽ không có đủ chổ cho chúng ta. Hãy nhẫn nại, những lời nguyền rủa tự nhiên sẽ chấm dứt.

4. Hạnh Phúc và Đau Khổ (Sukha và Dukkha)
Hạnh phúc (Sukha) và Đau khổ (Dukkha) là cặp thăng trầm cuối cùng. Nó cũng có nhiều năng lực nhất, ảnh hưởng đến đời sống nhân loại. Cái gì làm được dễ dàng là hạnh phúc (Sukha). Cái gì khó chịu đựng là đau khổ (Dukkha).
Ðiều gì làm được dễ dàng là hạnh phúc. Cái gì khó chịu đựng là đau khổ. Thông thường, thỏa mãn điều mong ước là hạnh phúc. Nhưng, liền khi vừa đạt được điều mong ước ấy, có khi ta đã ước mong tiếp một loại hạnh phúc khác.
Thực tế, hạnh phúc chân thực nằm bên trong chúng ta và không thể được định nghĩa bằng những danh từ như tài sản, quyền thế, danh vọng, hay chinh phục, xâm lăng. Nếu những tư hữu trần tục kia được thu tóm bằng bạo lực, cường quyền, hay một phương tiện bất công nào khác, hoặc theo một chiều hướng sai lầm, hoặc nữa, được nhìn với cặp mắt trìu mến hay tham lam, thì nó sẽ là nguồn đau khổ và sầu muộn cho chính người làm chủ nó.
Cái gì là hạnh phúc cho người này có thể không phải là hạnh phúc cho người kia. Cái gì là thức ăn thức uống có thể là thuốc độc cho người khác.

Đức Phật kể ra bốn loại hạnh phúc của người tại gia cư sĩ:
a) Loại đầu tiên là hạnh phúc được có tư hữu (atthi sukha) như sức khỏe, tài sản, sống lâu, sắc đẹp, vui vẽ, mạnh mẽ, sự nghiệp, đông đảo con cháu v.v...

b) Nguồn hạnh phúc thứ nhì là họ được hưởng những tư hữu ấy (bhoga sukha). Thông thường, ai cũng muốn thọ hưởng, ai cũng ưa vui thích. Đức Phật không bao giờ khuyên dạy rằng tất cả mọi người nên từ khước hạnh phúc trần gian và rút vào sống ẩn dật, chốn rừng sâu vắng vẽ.
Thọ hưởng tài sản không phải là chỉ dùng nó cho riêng mình, mà cũng là bố thí ra để tạo an lành cho người khác. Cái gì mà ta ăn, chỉ tồn tại nhất thời. Cái gì mà ta tích trữ, ta sẽ bỏ lại, và ra đi. Nhưng cái gì mà ta cho ra, sẽ trở lại với ta.
Những hành động thiện mà ta làm với những tư hữu trần tục, sẽ tồn tại lâu dài không thể mất.

c) Không nợ nần (anana sukha) là một nguồn hạnh phúc khác. Nếu tri túc, biết an phận với những gì mình có và nếu ăn ở kiệm cần, ta sẽ không nợ nần với ai. Người mang nợ luôn luôn sống trong tâm trạng hấp hối, nơm nớp lo sợ chủ nợ.
Nếu không nợ nần, mặc dù nghèo, ta vẫn cảm thấy thoải mái dễ chịu và thơi thới trong lòng.

d) Nếp sống trong sạch (anavajja sukha), hay hạnh phúc không đáng bị khiển trách, là nguồn hạnh phúc cao thượng nhất của người cư sĩ. Người có đời sống trong sạch là một nguồn phước báu cho mình và cho người khác. Người trong sạch được tất cả khâm phục. Người ấy cảm nghe hạnh phúc vì nằm trong phạm vi ảnh hưởng của những rung động an lành mà nhiều người khác gởi đến mình.
Tuy nhiên, ta phải ghi nhận rằng rất khó, vô cùng khó, mà được tất cả mọi người khâm phục. Người có tâm tánh cao quý chỉ biết giữ mình để sống đời trong sạch và thản nhiên trước dư luận.
Phần đông thỏa thích trong sự thọ hưởng những lạc thú của đời sống. Nhưng cũng có những hạng người thỏa thích trong sự từ khước, buông các lạc thú. Không luyến ái, hay vượt lên trên mọi khoái lạc vật chất, là hạnh phúc đối với người đạo đức. Hạnh phúc Niết Bàn - tức là trạng thái thoát ra khỏi mọi đau khổ - là hình thức hạnh phúc cao thượng nhất.
Chúng ta vui vẻ đón mừng hạnh phúc. Nhưng đau khổ thì không được niềm nở tiếp nhận.
Đau đớn (vật chất) và phiền muộn (tinh thần) đến với ta dưới nhiều hình thức. Chúng ta đau khổ khi phải chịu già yếu, đó là lẽ tự nhiên. Phải bình thản chịu đựng những khổ đau của tuổi già.

Càng đau khổ hơn hoàn cảnh già nua, là bệnh hoạn. Và nếu là một chứng bệnh trầm kha làm đau nhức lâu ngày, ta sẽ cảm thấy thà chết còn hơn. Chỉ một cái răng đau hay một lúc nhức đầu, đôi khi cũng làm cho ta vô cùng khó chịu đựng. Đúng vậy, phải tự an ủi rằng ta khỏi phải mang một chứng bệnh trầm trọng hơn.

Lắm khi chúng ta phải chia lìa thân bằng quyến thuộc. Cảnh biệt ly vô cùng đau khổ. Chúng ta phải nhận định rằng mọi kết hợp đều phải chắm dứt trong cảnh biệt ly. Đây là cơ hội quý báu để ta thực hành tâm Xả.
Một việc thường xảy ra là chúng ta phải kết hợp với người mình không ưa thích, sống chung với người mà ta ghét. Phải cố gắng chịu đựng và nghĩ rằng mình đang gặt hái quả xấu của một cái nghiệp nào mà chính mình tạo ra, hoặc trong quá khứ, hoặc trong hiện tại. Chúng ta phải cố gắng tự tạo cho mình một nếp sống thích hợp với hoàn cảnh mới và, bằng cách này hay cách khác, phải cố gắng vượt qua mọi trở ngại.

Chí đến Đức Phật, đấng toàn thiện đã tận diệt mọi ô nhiễm, mà còn phải chịu đau đớn vì bệnh hay vì tai nạn. Đức Phật nhiều lần bị nhức đầu. Chứng bệnh kiết lỵ sau cùng làm cho ngài đau đớn không xiết kể. Devadatta lăn đá từ đỉnh núi cao gây thương tích cho Ngài ở chân phải mổ. Lắm lúc Ngài phải nhịn đói. Đôi khi Ngài phải dùng thức ăn dành cho ngựa. Một lần nọ, vì các đệ tử không vâng lời, Ngài vào rừng ở ba tháng. Giữa rừng sâu, Ngài phải nằm trên một lớp lá ủ, trải trên mặt đất gồ ghề thô cứng và phải đối phó với những cơn lạnh buốt xương. Nhưng Ngài vẫn thản nhiên. Giữa những hoàn cảnh đau khổ, cũng như những lúc an vui hạnh phúc Đức Phật luôn luôn giữ tâm Xả hoàn toàn.

Trên bước thênh thang trong vòng luân hồi, chết là mối ưu phiền trọng đại nhất mà chúng ta phải đối phó. Ðôi khi cái chết không đến lẻ loi cho một người thân, mà đến trùng hợp cho nhiều người thân trong một lúc.
Bà Patacara mất một lúc bao nhiêu nhưng thân thuộc: cha, mẹ, chồng, anh và hai con. Bà trở nên loạn trí. Đức Phật khuyên giải và an ủi bà.
Bà Kisa Gotami mất người con thân yêu duy nhất. Tay bồng con, bà chạy đi tìm thuốc chữa trị và đến cầu cứu với Đức Phật.
- Được, con có thể tìm ra một vài hạt cải không?
- Bạch Đức Thế Tôn, con sẽ tìm ra hột cải, chắc như vậy.
- Nhưng hột cải này phải lấy từ trong nhà nào mà chưa từng có ai chết.
Hột cải thì có. Nhưng bà không tìm ra nơi nào mà thần chết chưa hề đến viếng. Bà tỉnh ngộ và nhận thức bản chất thiên nhiên của kiếp sinh tồn.

Một lần nọ, bà kia được người ta hỏi tại sao không khóc cái chết thê thảm của người con. Bà trả lời: "Không ai mời mọc, nó đến. Không cho ai hay, nó đi. Đến thế nào, nó ra đi cùng thế ấy. Tại sao ta khóc? Khóc có ích gì?"
Từ cành cây có nhiều trái rơi rụng - trái non có, trái già có, trái chín có - cùng thế ấy, ta có thể lìa đời lúc sơ sinh, lúc thiếu niên, lúc tráng niên, hay khi niên cao tuổi lớn.
Mặt trời mọc ở phương Đông chỉ để lặn ở phương Tây. Hoa nở tốt tươi buổi sáng để úa tàn vào lúc chiều.
Cái chết không thể tránh, đến với tất cả mọi người, không trừ ai. Và ta phải bình thản đối phó.

Ðức Phật dạy rằng:
"Cũng như trên đất, ta có thể vứt bất luận vật gì, dầu chua, dầu ngọt, dầu sạch, dầu dơ. Ðất vẫn thản nhiên một mực trơ trơ, không giận cũng không thương. Vậy, cùng thế ấy, trong hạnh phúc, trong phiền muộn, lúc thăng lúc trầm, ta phải giữ tâm bình thản như đất."
Trước những thăng trầm của thế gian, tâm của các vị Thánh Arahán không bao giờ xao động. Vì vậy, noi theo gương các Ngài, giữa những hoàn cảnh được và mất, danh thơm và tiếng xấu, ca tụng và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ, chúng ta hãy cố gắng luôn giữ tâm bình thản, chánh niệm và tỉnh giác, thực hành phạm hạnh mới mong có ngày đoạn lìa được vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, thoát được bến mê, chứng ngộ Niết Bàn cao thượng.

Theo "The Eight Worldly Conditions",
Ngài Nārada, 1970
"Những Bước Thăng Trầm"
Phạm Kim Khánh dịch

Thứ Năm, 5 tháng 2, 2015

Cách làm quả dứa bằng kẹo để lên bàn thờ ngày Tết

Chỉ với vài thao tác đơn giản, chị em có thể làm được quả dứa lộc từ kẹo đẹp lung linh để lên ban thờ dịp Tết nhé!

Từ những chiếc kẹo màu xinh xắn, bạn có thể tạo hình quả dứa lộc với sắc vàng tươi tắn để bày trên ban thờ tổ tiên vào những dịp xuân về, Tết đến. Bạn có thể tham khảocách làm quả dứa từ kẹo như dưới đây:


Chuẩn bị:
Lượng kẹo nhiều hay ít tùy thuộc vào kích cỡ quả dứa bạn muốn làm. Để làm được quả dứa theo kích cỡ lọ như bên dưới bạn cần chuẩn bị:

- 4 gói kẹo cứng màu vàng (loại túi trong)
- ¼ cuộn ruy băng khổ 2cm, màu xanh lá cây bằng nhựa
- 1 lọ nhựa hình tròn cao ~ 18cm, đường kính ~ 10cm
- 1 miếng bìa cứng
- 1 sợi kim tuyến màu xanh
- 1 cuộn băng dính 2 mặt
- 1 dập ghim nhỏ, kéo
- 1 cuộn băng dính trong



Cách làm:
Bước 1: Cuộn miếng bìa thành hình chóp nhọn, chiều cao bằng chiều cao của lọ bạn chuẩn bị, đường kính của đáy bằng phần lõm của đáy lọ. Nếu đáy lọ không có phần lõm thì bạn để chừa từ mép lọ vào đến miếng bìa là 1.5cm. Dùng băng dính trong dán cố định hình chóp.
Bước 2: Tiếp theo bạn gập hình tam giác phía đầu kẹo. Chú ý gập phía đầu có chữ, và phần gấp ở mặt trong của kẹo. Sau đó dập ghi để giữ tạo hình tam giác nhọn ở đầu kẹo. Làm hết các kẹo bạn chuẩn bị.
Cắt ruy băng thành những mẩu có đầu nhọn với số lượng như sau:
- 4-5 miếng có độ dài ~ 8 cm (tính cả phần đầu nhọn), để dán phần chóp.
- 15 miếng có độ dài ~10cm, để dán 2-3 tầng tiếp theo phần chóp
- 20 miếng có độ dài ~12cm, để dán 2 tầng cuối
Bước 3: Xếp 4-5 miếng ruy băng nhựa cỡ ngắn nhất, phần cong quay vào trong rồi dùng băng dính trong dán cố định vào phần chóp lõi giấy.
Bước 4: Các lớp lá lộc tiếp theo bạn chọn kích cỡ từ ngắn đến dài dần của ruy băng. Dán ruy băng khoảng 5 cái một vào băng dính trong rồi dùng tay ấn dính vào lõi giấy, dán dần dần theo hình xoắn ốc. Cố gắng để các lớp lá sole nhau thì đẹp hơn và chú ý dán phần cong của ruy băng hướng ra ngoài để lá xòe.
Bước 5: Dán xong phần lá lộc phủ kín lõi giấy. Bạn dùng băng dính trong để cố định phần lõi đấy vào đáy chiếc lọ nhựa.
Bước 6: Dùng băng dính 2 mặt cuốn vòng tròn và phủ kín phần lọ nhựa.
Bước 7: Dán kẹo vòng nào thì bóc phần băng dính 2 mặt vòng đấy. Dán kẹo lớp sau sole với lớp trước và hết một vòng thì cố định lại bằng băng dính trong thì kẹo mới chắc, bày lâu mà không bị rụng.
Dán xong các tầng kẹo phủ kín được lọ nhựa. Phần nắp lọ bạn che đi bằng cách dán băng dính 2 mặt phần nắp và cuốn sợi kim tuyến màu xanh vừa đẹp mắt mà lại dấu được phần nắp lọ đi.


Như vậy là bạn đã hoàn thành quả dứa lộc tươi tắn và đẹp mắt để bày ban thờ tổ tiên với mong muốn tài lộc sẽ đến với gia đình khi bước sang một năm mới. Cách làm quả dứa từ kẹo thật sự không khó nhỉ!



Chúc các bạn thành công!

Nguồn: Khám phá

Xem nguồn ở đây

Thứ Tư, 28 tháng 1, 2015

Người đời thường mang hai cái đãy (cái bị).



Người đời thường mang hai cái đãy (cái bị).
Một cái trước ngực chứa đầy lỗi lầm của người khác.
Một cái sau lưng chứa đầy lỗi lầm của chính bản thân.

Do đó, người đời thường bực bội, bất an trước các lỗi lầm quá dễ thấy của người khác. Trái lại, với các lỗi lầm của chính bản thân, người đời thường che giấu, không muốn ai thấy, chính mình cũng không thừa nhận, không nhận ra, cho nên khó khá được, cho nên khổ dài dài. Muốn hết khổ, muốn bớt khổ, người đời - dù theo tôn giáo nào - nên đổi vị trí của hai cái bị nói trên.
Khi nhận thấy chính bản thân cũng có quá nhiều khuyết điểm, nhược điểm, người đời chắc chắn không còn dám cất cao giọng chỉ trích nhục mạ người khác, cũng như không còn chỉ trích tôn giáo, tín ngưỡng của người khác đang theo.

- Kính cảm tạ lời chỉ giáo của Thầy. Thực hay quá. Nhưng riêng tôi, tôi không muốn đổi vị trí của hai cái bị đó thì sao, thưa Thầy ?
- À, quí vị không muốn đổi vị trí của hai cái bị, thì quí vị đổi nội dung của chúng cũng được mà.
- Tôi chưa hiểu rõ ý của Thầy ?
- Nếu quí vị vẫn giữ vị trí của hai cái bị :
Cái bị trước ngực qúi vị chứa đựng toàn là ưu điểm của người khác.
Cái bị sau lưng quí vị chứa đựng toàn là ưu điểm của bản thân.
- Tôi vẫn chưa tỏ tường ?
- À, khi đó quí vị sẽ thấy ưu điểm của người khác quá nhiều, lắm khi vượt trội hơn mình, mình thực ra chẳng bằng nhiều người lắm. Từ đó, mình bớt đi tánh phê phán, phỉ báng người khác - hãy thu mình lại, quan sát chính bản thân, quan sát chính bản tâm, mình sẽ được bình an ngay.
ST

10 LÝ DO NGHÈO, 10 ĐIỀU LÀM GIÀU

 10 LÝ DO NGHÈO
1. Phóng túng không lo làm ăn. => Từ từ sẽ nghèo
2. Tiêu phí tiền bạc không tiếc tay. => Dễ bị nghèo
3. Hàng ngày thức dậy trễ. => Đường đi đến chỗ nghèo
4. Nhà có ruộng đất không lo canh tác. => Làm biếng mà nghèo
5. Ham kết bạn với những người giàu có hơn mình. => Nhìn cao đua đòi mà nghèo
6. Thích thưa kiện tỏ ra anh hùng. => Tức khí mà nghèo
7. Vay nợ làm sang tỏ ra giàu có. => Tự mình làm nghèo
8. Vợ con ăn no làm biếng con cái lêu lỏng. => Mạng phải nghèo
9. Để con cháu giao du với bọn bất lương. => Bị lường gạt mà nghèo
10 Thích rượu chè, cờ bạc, trai gái. => Nghèo triệt để.
10 ĐIỀU LÀM GIÀU
1. Không từ mọi gian nan cực khổ. => Vì cần kiệm mà giàu
2. Buôn bán công bằng nhiều khách hàng. => Trung hậu mà giàu
3. Mỗi sáng thức dậy sớm. => Chăm chỉ làm giàu
4. Thường chăm lo việc gia đình. => Lâu ngày rồi sẽ giàu
5. Giữ gìn nhà cửa đề phòng trộm cướp, hỏa hoạn. => Cẩn thận mà giàu
6. Không làm những việc phi pháp. => Giữ gìn mà giàu
7. Trong nhà già trẻ giúp đỡ lẫn nhau. => Một lòng làm giàu
8. Vợ hiền, con ngoan không hà hiếp, ghen tuông. => Giúp gia đình giàu
9. Dạy con cháu biết tạo lập sự nghiệp. => Để đời sau giàu
10. Một lòng tích đức làm thiện. => Vì ở hiền mà giàu.
st

TỈNH DẬY



Thế gian này có quá nhiều chuyện phiền não, vì vậy, rất nhiều người đi gặp Phật cùng hỏi về một vấn đề: "Con nên làm thế nào mới không còn những điều phiền muộn?"
Phật đều trả lời giống nhau:
- Chỉ cần buông ra, con sẽ thôi không phiền não nữa.
Có một đạo sĩ tỏ ý không phục, bèn đi gặp Phật và hỏi:
- Trên thế gian này có hàng ngàn hàng vạn người, thì sẽ có hàng ngàn hàng vạn điều phiền não. Nhưng, Người cho họ giải pháp đều hoàn toàn như nhau, vậy đó chẳng buồn cười lắm sao?
Phật không nổi giận, chỉ hỏi ngược lại đạo sĩ:
- Buổi tối ông ngủ có thường hay nằm mơ không?
- Đương nhiên là có!
- Vậy, mỗi buổi tối nằm mơ, giấc mơ đều như nhau không?
- Đương nhiên là khác nhau rồi!
- Ông ngủ hàng ngàn hàng vạn lần, thì sẽ mơ hàng ngàn hàng vạn lần giấc mơ. Nhưng cách kết thúc giấc mơ, đều như nhau cả, đó là: "Tỉnh dậy!"

TÂM & CẢNH KHÔNG DÍNH NHAU '



Người đời thường do lục căn dính mắc với lục trần sanh ra lục thức, và bắt đầu tạo nghiệp, thường là nghiệp chẳng lành. Người tu muốn phát sanh Trí Tuệ phải nhận rõ nguyên nhân bị cuốn vào sanh tử luân hồi là do sự dính mắc.

- Nếu mắt thấy sắc, tâm không phê phán đẹp xấu, khỏi bị trói buộc.

- Nếu tai nghe tiếng, tâm không phê phán, khỏi bị não phiền.

- Nếu mũi ngửi mùi, tâm không phê phán, khỏi bị bực mình.

- Nếu lưỡi nếm vị, tâm không phê phán, khỏi tạo nghiệp chướng.

- Nếu thân xúc chạm, tâm không phê phán, khỏi bị tham đắm.

- Nếu ý nhớ tưởng, tâm không phê phán, khỏi khởi sân hận, hay luyến tiếc, nhớ thương.

Tâm không phê phán nghĩa là không dính mắc, không nhiều chuyện, không chạy theo sự suy nghĩ sanh diệt, chứ không phải không nhận thức rõ đẹp xấu, đúng sai, ngon dở.

Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy:
"Tâm và cảnh không dính nhau là giải thoát".

ST

Thứ Hai, 5 tháng 1, 2015

Vô Tâm



Vô tâm không phải là không có tâm. Vô tâm cũng không phải là vô cảm. Mackeno. Có một chữ tượng hình rất hay trong chữ Hán : là mộc. là mục. là tâm.Khi mộc ghép với mục thì thành tướng . Tướng vô tội. Không sanh sự. Nói khác đi, khi trần (mộc= cây) gặp căn (mục = mắt) thì chẳng có chuyện gì xảy ra! “Sắc thanh hương…” đụng “nhãn nhĩ tỷ…” chả sao cả. Cận thấy kiểu cận, loạn thấy kiểu loạn, lão thấy kiểu lão.Con người tội nghiệp. Nhãn thua loài cú. Nhĩ thua loài dơi, Tỷ thua loài chó… Con ong cái kiến cũng có căn có trần riêng của nó! Vậy mà con người cứ tưởng mình ngon nhất thế gian. Làm được cái kính thiên văn đường kính rộng, nhìn lên bầu trời đã la hoảng khi thấy có hàng trăm ngàn tỷ thiên hà, trong khi xưa kia tưởng chỉ có mỗi một mặt trời vĩ đại của riêng ta thôi! Nay mai có kính thiên văn đường kính rộng hơn nữa không biết chuyện gì sẽ xảy ra!Trở lại chuyện Tâm. Căn với trần mới là tướng. Ghép thêm chữ tâm vào thì mới thành tưởng . Có tưởng là bắt đầu sinh sự. Tưởng vô vàn. Tưởng vô tận. Muốn thiên đàng có thiên đàng. Muốn điạ ngục có địa ngục. Cho nên tu là tu Tâm. “Nhất thiết duy tâm tạo”. Tất cả là do tâm bày vẽ ra. Phật từ thời Hoa Nghiêm đã nói rõ như thế. Hạnh phúc khổ đau từ đó. So sánh hơn thua, chém giết nhau từ đó. Tiếng Việt ta còn hay hơn: Tướng và Tưởng, chỉ khác nhau có mỗi cái dấu sắc, dấu hỏi… Mà đã ngàn trùng cách xa!Vô tâm thì vô sự. Vô sự thì bình an. Bình an vô sự. Người ta chúc nhau như vậy. Người ta lại chúc nhau “Vạn sự như ý”! Ý dẫn các pháp. Muốn “vạn sự” được “như ý” đâu có khó gì. Một đám du khách hỏi anh nông dân:“Hôm nay thời tiết ở đây thế nào anh?”“Hôm nay có thứ thời tiết mà tôi thích!”“Làm sao anh biết là có thứ thời tiết mà anh thích?”“Phải học, thưa ông. Không phải lúc nào tôi cũng có cái tôi muốn nên tôi phải biết muốn cái tôi có.”“Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” (Trần Nhân Tông).

Đỗ Hồng Ngọc


Xem nguồn ở đây 

 

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2015

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!!!

NĂM MỚI 2015 CHÚC CÁC BẠN
- CÓ THỂ TRẦM TĨNH VÀ SÁNG SUỐT TRONG CÁC TÌNH HUỐNG.
- TINH TẤN, KHÔNG BUÔNG LUNG CHẠY THEO THAM SÂN SI CỦA BẢN NGÃ!


Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

Có tu và không tu

Người có tu và người không tu có thể nói năng, hành xử và hoạt động tương tự nhau. Vậy đâu là sự khác biệt? Sự khác biệt ở chỗ: người có tu thường chánh niệm về hầu hết các hoạt động của thân và tâm trong sinh hoạt hằng ngày. Còn người không tu thì ít khi có chánh niệm.


Ngồi thiền, ăn chay, tụng kinh, niệm Phật, đọc kinh, trì chú.....là những hình thức của việc tu, chứ không phải là mục đích. Nếu chỉ làm những việc này như thói quen, làm trong vô thức, làm mà không chánh niệm tỉnh giác thì cũng như người không tu.