Hành Trình Tâm Ý Thức Trở Về Bổn Nguyên

DƯỚI ĐÂY LÀ CHIA SẺ CỦA BẠN NHUNG TUYET HO (LINDA) TRÊN TRANG FACEBOOK CỦA BẠN. 

CÔ MÀ BẠN HAY NHẮC ĐẾN TRONG CÁC BÀI VIẾT CỦA MÌNH CHÍNH LÀ CÔ HỒNG MẬNĐÂY LÀ NGƯỜI ĐÃ KHAI THỊ PHÁP NHỊ NGUYÊN CHO TÔI.

Tôi sẽ kể bạn nghe những câu truyện góp nhặt thành nhật ký : 
“HÀNH TRÌNH TÂM Ý THỨC TRỞ VỀ BỔN NGUYÊN " nơi cuộc sống chính tôi.

Tất cả các câu chuyện đều được xếp vào album cùng tên ,để những ai có nhân duyên sẽ theo dõi đầy đủ hành trình này.

Qua những trang nhật ký, bạn sẽ hiểu rõ hơn về sức mạnh PHI THƯỜNG của BỘ NÃO chính mình, về thế giới TÂM LINH vốn dĩ huyền bí, nhưng lại luôn hiện diện nơi cuộc sống chúng ta, và nhất là bạn sẽ biết cuộc đời này rất công bằng, QUY LUẬT NHÂN QUẢ luôn vận hành tâm thức con người theo nhân trổ quả, hoàn toàn chính xác tuyệt đối.

Nếu bạn tin những câu chuyện tôi kể, thì thông qua nó có thể tự rút ra bài học cho riêng mình.

Còn nếu bạn hoài nghi, thì hãy cứ xem đây là tiểu thuyết – nhưng nếu như bạn gặp phải bế tắc, hãy nhớ đến những mẩu truyện của tôi vì nó có thể sẽ giúp ích cho bạn.

Nhật ký này là PHI TÔN GIÁO vì vậy bạn hãy đọc nó với một tâm thế cởi mở.

Bất kỳ bạn đang theo đạo nào, hãy luôn nhớ rằng :

VẠN PHÁP QUY TÂM THỨC TA MÀ TỎ THẤU PHÁP

Mọi pháp trên thế gian đều hướng tới Chân – Thiện – Mỹ và cuối cùng chỉ là để bạn tìm ra cái TÂM CHÂN THẬT của chính mình mà thôi.

- Tâm Như -


1. PHẦN 1: XOAY VÒNG TRONG BỂ KHỔ

Một ngày mùa hè năm 2019,

Tôi là một người mạnh mẽ và lạc quan, nhưng vẫn không thoát khỏi vòng xoáy “hỉ nộ ái ố” của cuộc đời. 

Lúc ấy, tôi đang trải qua quãng thời gian hai năm vô cùng tồi tệ (đôi lúc tôi biết rằng mình đang đối mặt với bệnh trầm cảm).

Chỉ trong 4 năm, tôi trải qua quá nhiều biến cố cuộc đời (tôi sẽ kể dần qua từng trang nhật ký sau này), hãy cứ tưởng tượng tôi như từ đỉnh núi rớt thẳng xuống vực thẳm mà không có trạm nghỉ: gia đình, công việc, con cái, các mối quan hệ…
Tôi hay đùa với chính mình rằng cuộc đời tôi 20 năm chắc gom lại bắt tôi chịu đựng trong vài năm vậy.

Bởi vì luôn tỏ ra mình ổn trước mặt người khác, nên chẳng ai có thể nhận ra vấn đề của tôi để giúp đỡ. Điều đó ngày càng đẩy tôi đến tận cùng của sự bế tắc…….

Mùa hè năm ấy, tôi dẫn lũ trẻ đến một hòn đảo mang tên Phật, tôi thích đến đây vì nó vẫn còn hoang sơ, chân chất. Khi lũ trẻ mải vui chơi chạy nhảy, còn tôi thì vẫn đắm chìm trong một mớ bòng bong….

Rồi trời cũng về khuya, tôi ngồi một mình trên bãi biển, đăm chiêu nhìn những con sóng xa xăm tối mịt mù. Lòng tôi bỗng dâng trào cảm xúc mà bật khóc như chưa từng được khóc, nước mắt tôi tuôn rơi, tuôn rơi làm cho mọi thứ trước mắt tôi nhoè đi.

Bỗng nhiên, qua làn nước mắt ấy, tôi nhìn thấy ánh sáng và hình bóng một người phụ nữ. Cô ấy có mái tóc màu trắng dài giống tôi, cao giống như tôi và mặc chiếc váy màu ánh kim phát sáng. Gặp cô ấy, tôi cũng không ngạc nhiên lắm, vì dạo gần đây thỉnh thoảng tôi cũng có gặp cô ấy thoáng qua trong mơ.

Nhất là trong một buổi chia sẻ của chuyên gia THIỀN trị liệu bằng âm thanh, tôi cũng đã gặp cô ấy đứng mỉm cười nắm tay tôi ở cuối con đường hầm tối tăm…

Lần này cô ấy đến, ngồi xuống cạnh tôi âm thầm, lặng lẽ. Cả hai cứ ngồi như vậy, ngắm nhìn biển và trăng sao, không nói một lời. Nhưng khi ấy tôi cảm thấy lòng mình dịu lại, cảm thấy quanh mình được phủ bởi bầu không khí thanh mát dễ chịu. Chắc hẳn là một sự trùng hợp, mà mặt biển lúc đó đã không còn có sóng, mặt nước phẳng lặng như cái ao soi bóng trăng sao xuống nước. Khung cảnh lúc đó rất đẹp, và tôi ước rằng bạn có thể được nhìn thấy nó giống tôi…

Cô ấy cứ ngồi lặng lẽ cạnh tôi như vậy, cho đến khi hoàn toàn tan biến vào hư vô. Lúc ấy trong đầu tôi chỉ còn đọng lại ý nghĩ “BUÔNG BỎ”.
Phải rồi! Buông bỏ hết mọi giận hờn, buông bỏ hết những đau thương, buông bỏ hết những người làm tổn thương mình, buông bỏ hết thất bại…. và LÀM LẠI TỪ ĐẦU.

Rồi tôi chợt tỉnh giấc. Hoá ra nãy giờ chỉ là mơ! Mà cũng phải thôi, vì tôi vẫn thường chỉ gặp cô ấy trong mơ. Lúc đó là khoảng 5h, tôi vươn vai bước ra bờ biển nhìn những con sóng.
Bình minh hôm ấy mặt trời đỏ rực và rất to, nước rút hết để lộ một con đường bắc qua hai hòn đảo đầy thơ mộng. Tôi đã ra đến giữa con đường đó và hét thật TO rằng: BUÔNG BỎ HẾT! BẮT ĐẦU LẠI!

Và kể từ ngày đó, HÀNH TRÌNH của tôi bắt đầu…

-Tâm Như-


2. RƠI TỰ DO...

Hẳn là bạn đang muốn xem tôi bắt đầu hành trình của mình thế nào. Nhưng chưa đâu, tôi vẫn tiếp tục rơi tự do…

Tôi là người có ý chí sắt đá, thời điểm đó tôi đã tự nhủ với lòng mình, rằng tôi sẽ tự leo lên khỏi cái vực này bằng chính đôi chân của mình. Tôi tin là tôi sẽ làm được điều đó! 

Nhưng hệt như 1 trò đùa! Tôi bắt đầu bị VIÊM KHỚP GỐI!
Ban đầu tôi cứ nghĩ đó chỉ là đau nhức thông thường, nhưng theo thời gian càng ngày nó càng nặng, nặng đến mức đi cầu thang tôi phải lết, đau đớn không kể xiết! Đau lòng nhất là khi tôi gặp bác sĩ, ông đã tặc lưỡi: “Sao còn trẻ mà bị bệnh bà già thế này?” Bác sĩ cho tôi một đống thuốc và nói rằng tôi phải kiêng ăn tôm, bò, hải sản… những thực phẩm có nhiều đạm. Tôi nói rằng trước giờ tôi ăn rất ít vì tôi chỉ thích ăn rau.

Bệnh khớp gối của tôi chữa dai dẳng, tái đi tái lại liên tục vô cùng mệt mỏi. Nhưng tất nhiên với tinh thần của kẻ “bị đánh lổ đầu chảy máu cũng không khóc”, tôi đã tự nhủ nếu đôi chân này chống lại tôi, tôi sẽ tự leo lên bằng đôi tay! Và thật là bất ngờ, chỉ trong thời gian ngắn, tôi được chuẩn đoán VIÊM VAI GÁY! Thật KHÔNG THỂ TIN được! Ngay cả các ngón tay của tôi cũng bắt đầu SƯNG PHÙ, ĐAU NHỨC!

Bệnh của tôi cứ thế chữa hết cái chân thì lên cái tay, hết cái tay thì xuống cái chân, vui vui thì nó cho 2 cái đau cùng lúc. Và tôi tự nhủ đây đã là đáy chưa???…

Quyết định buông bỏ là một chuyện, nhưng có buông được hay không lại là chuyện khác.

Chính xác là tôi đã bị TRẦM CẢM. Và trong một buổi tối điên khùng, tôi thực sự đã lên cơn điên. Tôi đã đứng bên cửa sổ chỉ tay lên trời, trợn mắt và đay nghiến:

“Tôi biết Ông đang cố tình chơi tôi! Ông chỉ giỏi đánh lén sau lưng thôi! Đời tôi là do tôi quyết định, Ông đừng có xía vàooo!!!”
Sau đó tôi lầm bầm chửi rủa gì đó.

Ai ngờ Ổng giáng ngay 1 đòn trực diện cái “RẦMMMMM…!!! Rầm! rầm!” đánh thẳng vào sự khùng điên của tôi. Lúc ấy tôi kinh hồn bạt vía ù té CHẠYYYYY...

Lũ trẻ nhà tôi cũng khóc thét! Mấy mẹ con nhảy lên giường ôm nhau trùm chăn trốn. Cả cuộc đời tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng SẤM TO kinh dị như thế! (Ngay cả mẹ tôi cách nhà 5km sau đó cũng nhắn tin cho tôi về nó).

Khi ấy tôi như 1 con sư tử què mà vẫn xù lông ra vẻ HUNG HĂNG KIÊU NGẠO, sau khi bị tát một bạt tai làm cho hồn vía thất kinh thì teo nhỏ lại thành con chuột chũi, lủi vào phòng chạy trốn.

Khi đó tôi đã không hiểu vì sao tôi lại sợ hãi đến vậy, tim đập chân run… và tôi chính thức ĐẦU HÀNG, hoàn toàn KHUẤT PHỤC trước sức mạnh của TRỜI ĐẤT này: “Con lạy Ông Trời, con sai rồi, con xin lỗi lúc nãy con lỡ mồm, xin ngài bỏ qua cho con và cho con một lối thoát...”

Vâng, thời khắc tiếng SẤM ấy đập lên đầu tôi, cũng là lúc tôi chính thức chạm chân dưới ĐÁY VỰC và THỨC TỈNH!

🌼Đôi lời nhắn nhủ bạn đọc🌼

Bạn biết không, bất kỳ mọi việc mình làm dù tốt hay xấu cũng đều được lưu vào nơi tâm thức y như một cái nhân, và được tưới tầm nuôi dưỡng bằng ý nghĩ và hành động chính mình. Theo thời gian, nó sẽ lớn dần cho đến lúc đủ duyên trổ quả mà tác động vào cuộc sống chính ta.

Cho nên ,mọi thứ mà cuộc sống từ con người cho đến hoàn cảnh mang lại cho ta, chẳng gì chẳng là quả mà ta đã gieo nhân.

Tất cả đều là việc mà chỉ có ta mới giải quyết nó ổn thỏa bằng trí tuệ thấu suốt nhân quả mà ta đã gieo tạo nơi tâm thức chính ta.

Nhân gieo sao ắt quả sẽ y vậy, nơi quả trổ mà biết nhân gieo chính xác tuyệt đối chẳng thể lầm lẫn.

Nếu bạn gieo nhân xấu, bạn sẽ nhận về quả xấu, đó là điều tất nhiên. Nhưng nếu bạn là người tốt mà vẫn liên tục gặp tai ương, hay việc bất như ý… thì cũng đừng buồn nhé, nguyên nhân tôi sẽ giải thích cho bạn về sau.

Thực ra, nhân quả ta gieo từ nơi tâm thức ta, tạo nên hoàn cảnh sống chính ta, để ta trải nghiệm mà học bài học nó dạy cho ta.

BÀI HỌC CỦA TÔI LÀ GÌ ?

Tôi sẽ viết nó vào một câu chuyện khác.

Mãi đến tận sau này, tôi mới hiểu vì sao lần đó Ông Trời đã đáp trả tôi một cách dứt khoát và ngay lập tức như vậy. Lúc ấy, tôi đã đối diện với trời đất bao la, dùng hết sức lực uất hận từ những việc bất như ý đã đè nén bấy lâu nay, phát lên tiếng nói trách cứ Ông trời, cũng chính là tạo tiếng vọng về nơi tiếng nói ấy.

Tiếng vọng từ trời trả lại cho tôi như một tiếng sấm kinh thiên động địa, làm chấn động tâm can tôi mà diệt sạch cái tôi NGÃ MẠN mà tôi luôn tưởng rằng nó là sức mạnh duy nhất giúp tôi thành công trong mọi việc. Nhờ tiếng sét kinh hoàng ấy, cái tôi SI MÊ NGÃ MẠN nơi tôi mới được đánh thức mà hóa thành con chuột nhỏ chui vào chăn run rẩy, sợ hãi mà bừng tỉnh sau một đêm ngủ dậy.

Tôi đã nhận ra rằng : Dù tôi có là ai, có cao siêu, tài giỏi cỡ nào, tôi cũng chỉ là hạt cát để quy luật tạo hóa trời đất vận hành tạo nên những sản phẩm giúp ích cho sự sống nhân loại mà thôi.

-Tâm Như-


3. CHẬT VẬT LEO LÊN TỪ ĐÁY VỰC 

Quãng thời gian ấy, tôi cảm thấy rất tệ, vì mình là người nghiên cứu và làm việc về NÃO BỘ mà lại đang đối diện với vấn đề lớn nhất của não: TRẦM CẢM.

Có cái gì đó “sai sai” ở đây chăng?

Và tôi bắt đầu quy hoạch lại cái mớ bòng bong trong đầu mình. Tôi đã viết hết những chuyện quá khứ làm mình buồn, người làm tôi bận tâm, phiền não ra giấy và xé nó đi, với ý nghĩa là tôi sẽ không còn quan tâm đến nó nữa. Nhưng sao nó vẫn ngự trị nơi trí não tôi.

Tôi tự hỏi VÌ SAO nó tồn tại nơi tâm trí tôi ?

Và tôi đã nhận ra cái mà tôi cần buông bỏ chính là sự CỐ CHẤP, CỨNG ĐẦU và NGẢ MẠN của mình. Tôi cũng viết hết những vấn đề khiến tôi bị bế tắc và dự định sẽ xử lý dần dần.

Việc tiếp theo tôi làm là tìm người phù hợp để nhượng lại công việc kinh doanh yến sào của mình. Mong ước duy nhất của tôi lúc đó là có nhiều thời gian để nghỉ ngơi, chữa bệnh và thay đổi. Khi ấy nhiều người đã nói tôi điên, vì đây là cả bầu trời tâm huyết của tôi bao nhiêu năm, là nguồn thu nhập chính của tôi lúc ấy, sao có thể bỏ được chứ? Tôi vẫn chọn từ bỏ. Nhưng bỏ nó chẳng dễ chút nào, suốt nhiều tháng trời tôi không thể tìm được người phù hợp. Những tháng năm ấy, tôi vẫn xoay vần trong bóng tối của bế tắc, bệnh tật và sự bận rộn.

Rồi nhân duyên dẫn dắt tôi tìm đến THIỀN. Phải rồi, chỉ có thiền mới có thể giúp tôi sửa chữa cơ thể và bộ não hỏng hóc này. Nhưng nguyên nhân sâu xa hơn, là vì tôi muốn gặp lại người phụ nữ tóc trắng ấy, muốn biết cô ấy là ai…

NHỮNG NGÀY ĐẦU ngồi thiền thật khó khăn, vừa ngứa, vừa mỏi, vừa đau nhức do bệnh hành hạ. Còn cái đầu thì chẳng thể tập trung nổi, những ý nghĩ vẩn vơ cứ cuốn tôi đi mông lung. Nghe người ta nói thiền sẽ thấy nhiều cái rất kỳ diệu, nhưng suốt cả tuần, tôi chẳng thấy mình có gì thay đổi, tôi bắt đầu thấy nản. Giữa lúc muốn bỏ cuộc thì cái ý nghĩ sẽ được gặp cô ấy lại thôi thúc tôi cố gắng. Tôi muốn gặp lại cô ấy, người luôn mang lại cho tôi cảm giác bình yên…

Và bắt đầu có SỰ CHUYỂN BIẾN! Tôi bắt đầu nhận biết được đâu là ý nghĩ xuất hiện để thoát khỏi nó mà không bị nó cuốn đi. Tôi cũng tự nhiên biết cách làm cho mình nhập thiền nhanh chóng trong thời gian chưa đến 1 phút.

Tất nhiên mỗi người sẽ hợp với một cách nhập thiền khác nhau, có người tập trung đếm số nhịp hơi thở, có người đếm số lượng ý nghĩ xuất hiện… Nhưng với tôi, chỉ cần tự lấy cơ ấn hai con mắt sâu vào trong và giữ nó một thời gian, thì sẽ tự động cách ly ra khỏi thế giới bên ngoài. Sau này,tôi cũng thử dùng phương pháp này với cái tai của mình và nó cũng hiệu quả không kém! Hệt như bạn đang cần tĩnh tâm, bạn đóng cửa mắt hoặc tai của nhà mình lại, để không bị ai làm phiền. (Sau này tôi mới biết thuật ngữ chuyên môn gọi là “đóng căn” để trở về Bổn Tâm mình. Về sau tôi cũng không cần áp dụng cách này nữa, nhưng nó sẽ giúp ích cho bạn lúc khởi đầu nếu bạn hợp với phương pháp này.)

Tôi bắt đầu cảm nhận có những VỆT SÁNG mờ mờ giao thoa thành từng vòng trước mắt hệt như những vệt nước loang. Theo thời gian, những vệt này càng ngày càng nhiều và bao phủ hết người tôi.

HAI MẮT tôi bắt đầu căng ra và giựt giựt liên hồi.

Tiếp đến là bắt đầu NỔI DA GÀ, ngứa ngáy rần rần từng bộ phận trên cơ thể. Cảm giác nổi da gà xuất hiện ngày càng nhiều và chạy khắp nơi trên người tôi như từng đợt sóng: từ tay chạy lên đầu, từ đầu chạy xuống chân, hay từ chân chạy ngược lên đầu… lung tung không cố định và không kiểm soát được.

Tôi cũng cảm thấy có cái gì đó đang ĐÈ NẶNG trên đỉnh đầu mình, đọc nhiều tài liệu thì tôi biết đó là NĂNG LƯỢNG.

Vì thấy có sự thay đổi nên tôi rất thích thú với Thiền, tôi đã CỰC KỲ KIÊN TRÌ với nó. Tôi cảm thấy năng lượng đến ngày càng mạnh mẽ, lúc ấy trong đầu tôi chỉ toàn là từ khóa “NĂNG LƯỢNG”, nó thật là sức mạnh vô biên! Tôi đã hào hứng khoe chồng và người thân của mình về nó, và tham khảo thêm rất nhiều tài liệu về năng lượng...

Sau đó, tôi bắt đầu có những giấc mơ ma quái đáng sợ. Tôi ĐỐI MẶT VỚI NỖI SỢ từ thuở thơ ấu của chính mình mỗi khi lên cơn sốt, là bị cái mạng nhện đen thui từ đằng xa tiến sát lại mình, to dần, to dần rồi ụp thẳng vào mặt. Giấc mơ đó làm tôi sợ hãi, giật mình tỉnh giấc.

Hay giấc mơ bước vào 1 căn nhà hoang ma mị với cảm giác có cái gì đáng sợ sắp đến.

Hay tôi bị nhốt trong một căn phòng tối tăm với con gì đó ở bên ngoài đang phá cửa ầm ầm…

Còn rất nhiều những giấc mơ ma quái đáng sợ khác nữa, và những lúc tôi sợ hãi tỉnh dậy thì đều cảm thấy có cái gì đó đè nặng trên đỉnh đầu.

Tôi biết năng lượng vẫn không ngừng truyền vào người tôi ngay cả khi tôi ngủ và không thiền. Nhưng tôi không hiểu đang có chuyện quái quỷ gì xảy ra trong những giấc mơ của tôi. Tôi cứ mải quay vòng trong phát hiện mới của mình về NĂNG LƯỢNG và những giấc mơ ma quái suốt 2 tháng trời mà không nhìn thấy được cái gì khác. (Thực tế là có người bị kẹt cả cuộc đời trong chính thế giới này mà không thoát ra được.)

Nhưng ít nhất tôi bắt đầu thấy bệnh đau khớp của mình dần cải thiện chút ít. Ông Trời đã truyền năng lượng để giúp tôi có sức mà mò mẫm leo lên từ đáy vực thẳm, tôi đã leo lên được 1 đoạn khá xa từ cái đáy đó, nhưng trước mắt tôi vẫn là bóng đêm mù mịt thăm thẳm. Nhưng tôi vẫn KIỀN TRÌ CỐ GẮNG.

Cho đến một ngày, tôi phát hiện Ông Trời đã thả xuống cho tôi 1 SỢI DÂY THỪNG…

🌸🌸🌸Đôi lời tâm sự tới bạn đọc:

Đến bây giờ khi nhìn lại, tôi mới hiểu được cái “sai sai” mà tôi mới nói lúc nãy, rằng tôi là người nghiên cứu và làm về những chương trình là sản phẩm của não bộ để giúp đỡ người khác, ấy vậy mà tôi lại bị vấn đề lớn nhất của não là trầm cảm.

Thực ra cái "sai sai " mà tôi thấy chỉ là ý nghĩ mà Tự Nhiên bắt tôi phải đối diện với NGHỊCH LÝ để tự rút ra bài học cho chính mình.

Nghiên cứu và làm việc về NÃO BỘ chính là con đường tôi chọn, và tất cả những khổ đau, bế tắc đến với tôi đều là để tôi trải nghiệm thực tế về nó, để thực biết các vấn đề nó đang diễn ra nơi NÃO TRÁI con người, và nó thúc đẩy NÃO PHẢI của tôi tìm đến thiền mà truy rõ nguyên nhân, nhằm thấu triệt gốc rễ sanh tạo mà GIẢI THOÁT nó ra khỏi sự đóng khung của hộp não, để nó thăng hoa tiến hóa thành TRÍ TUỆ thấy biết chân thật.

Và khi sống cùng trí tuệ thấy biết CHÂN THẬT soi sáng, tôi mới nhận ra bài học mà sự trãi nghiệm nơi nó mang lại cho cuộc sống chính tôi.
Những gì trước kia tôi biết chẳng qua chỉ là lý thuyết suông tôi nghe lại từ người mà chẳng thực biết về nó. Và tôi dùng kiến thức đó đi nói lại, thì có khác gì một kẻ sao chép máy móc, rập khuôn, và tôi sẽ chẳng thể biết cách giải quyết nó - bởi chẳng biết nguyên nhân, gốc rễ tạo ra nó nơi cuộc sống chính tôi. Nhờ trải nghiệm thực tế, tôi mới hiểu được ý nghĩa của những chặng đường tăm tối tôi đã đi qua, tôi tự nhận diện được vấn đề, rút ra bài học và tự mình giải thoát khỏi khổ đau.

Từ đây tôi mới hiểu được HẠNH PHÚC THỰC SỰ chính là GIẢI THOÁT TÂM THỨC, là tiến trình thâu nạp năng lượng trí tuệ sáng suốt từ sự chuyển hóa tâm thức, ánh sáng ấy luôn soi thấu mọi ngóc nghách tâm thức, làm bùng vỡ hết thảy mọi bế tắc mà bản ngã si mê mang lại, hòng đem đến cho ta năng lượng HIỂU THẤU, YÊU THƯƠNG.

Và chỉ có YÊU THƯƠNG mới là nguồn năng lượng HẠNH PHÚC vô biên đích thực, mang giá trị bình an đến với đời sống luôn vô thường biến đổi nơi kiếp làm người.

Có như vậy, tôi mới có đủ năng lượng để lan tỏa giá trị ấy tới những người thân xung quanh tôi, đến những bạn bè tôi, đến những người thực sự cần tôi giúp đỡ, cũng là giúp cho chính tôi cùng công ty mình hoàn thành sứ mệnh mà tôi đã ước mơ nó trong cuộc đời này.

-Tâm Như-


4. TÔI ĐÃ QUYẾT ĐỊNH NẮM CHẶT SỢI DÂY THỪNG

Sau những tháng ngày đằng đẵng tìm kiếm, cuối cùng cũng có người phù hợp để tiếp nối tâm huyết của tôi đối với nghề yến sào. Kể từ sau khi sang nhượng, tôi chính thức nghỉ ngơi cả về thể chất lẫn tinh thần. Tôi đã dành phần lớn thời gian sau đó để đi du lịch khắp nơi, mục đích là tìm kiếm cái gì đó – mà chính tôi còn không biết nó là cái gì…

Cho đến một ngày, nhân duyên sắp đặt tôi đi một chuyến đi rất QUAN TRỌNG.

Chỉ là một chuyến du lịch dài ngày như bao chuyến đi khác, nhưng sao cảm giác lại khác hẳn, mới mẻ hơn, tươi vui và hạnh phúc hơn. Tôi đã nói với mẹ mình rằng: “Không hiểu sao con thấy vui quá!” Tôi đã cười rất nhiều trong suốt cả hành trình mà người khác nói là cực khổ. Mặc dù đi bộ rất nhiều nhưng không hiểu sao chứng viêm khớp lại tha bổng cho tôi trong suốt thời gian ấy...

VÀ TÔI ĐÃ GẶP CÔ, người luôn ở bên cạnh giúp tôi TÁI SINH lại 1 lần nữa, người mà sau này tôi luôn coi là người mẹ thứ ba của cuộc đời mình.

Trong suốt chuyến đi, Cô có lẽ là người im lặng nhất trong đoàn, không có gì nổi bật nên tôi cũng không chú ý. Cái duy nhất làm tôi hơi để tâm chính là cái tên mọi người hay gọi Cô: “Giác Tuệ” – cái tên nghe vừa lạ mà vừa hay, nhưng có vẻ không hợp với một người có hình dạng bình thường như thế này – đó là những gì tôi nghĩ khi ấy.

Nhân duyên sắp đặt, Cô thường xuyên ở chung phòng với mẹ con tôi trong suốt cuộc hành trình mà tôi cũng không chú ý lắm và cũng không nói chuyện nhiều ngoài những lời xã giao. Mãi cho đến ngày cuối cùng, khi mọi người đang chộn rộn chuẩn bị kết thúc chuyến đi, thì chúng tôi mới ngồi cạnh nhau và bắt đầu trò chuyện.

Tôi không nhớ mình đã bắt đầu từ đâu, và đã nói những gì. Nhưng khi ấy, tôi đã bất ngờ chảy nước mắt khi nghe Cô nói về NHÂN QUẢ. “Nhân quả không có tốt xấu, nó đến với cuộc đời ta là để dạy ta những bài học. Vấn đề là ta có nhận ra để tự rút ra bài học cho mình hay không thôi. Và chỉ có hiểu thấu được nhân quả thì mới GIẢI THOÁT được tận cùng khổ đau.”

Tôi đã khóc ở đoạn đó, khóc trong vô thức mà không hiểu lý do. Lúc ấy, tôi còn nghĩ: “Trời à, sao tự nhiên khóc vậy, bao nhiêu người nhìn kìa quê quá!”, ấy vậy mà vẫn không thể kìm được nước mắt.

Sau đó, cô có nói với tôi một số bài học về pháp nhị nguyên, thấy biết đối thể, về ví dụ hai bàn tay trái phải, về hình ảnh đám mây và mặt trời. “Nếu nhìn vào đám mây, thì thấy mây che mặt trời, nhưng nếu là đám mây thì sẽ thấy được mặt trời chiếu sáng.”

“Mọi sự vật trên đời tốt hay xấu đều chiếu theo lăng kính nơi thấy biết chính ta mà hiển bày, để ta thực biết tâm thức nơi ta là đối thể hai mặt tốt và xấu, trái và phải, đúng và sai, thiện và ác, chánh và tà v.v... tạo nên hợp thể thấy biết mà soi chiếu mọi vật qua con mắt chính ta. Y như ánh sáng mặt trời luôn soi chiếu mọi vật qua con mắt mà tỏ thấu thấy biết chính ta.

Mọi nỗi buồn, sự bế tắc, phiền não, đau khổ... nơi tâm thức ta xuất phát từ ý muốn tốt mà chẳng muốn xấu, muốn đúng mà chẳng muốn sai, muốn thiện mà chẳng muốn ác... Y như muốn ngày mà chẳng muốn đêm, muốn nắng mà chẳng muốn mưa v.v... là chẳng thể.

Rõ thấu vậy, ta mới biết thiện ác, đúng sai, đẹp xấu, thất bại, thành công … luôn song hành mà triệt tiêu lẫn nhau về không, y như ngày và đêm luôn song hành triệt tiêu lẫn nhau về không mà giữ cân bằng các mắc xích, mà các mắt xích ấy đang liên kết nhau hình thành sự sống muôn loài trên trái đất.”

Lúc ấy, tôi chỉ hiểu mơ hồ những điều Cô nói, nhưng không hiểu sao sâu thẳm trong lòng tôi biết rằng, nhất định phải bám theo Cô.

Sau đó, Cô nói gì thì mặc Cô nói, trong đầu tôi chỉ văng vẳng mãi câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu:

“TỪ ẤY TRONG TÔI BỪNG NẮNG HẠ, MẶT TRỜI CHÂN LÝ CHÓI QUA TIM.”

Kể từ những giây phút ấy, tôi đã biết Cô Giác Tuệ chính là SỢI DÂY THỪNG ông trời thả xuống cho mình. Chính là người mà bấy lâu nay tôi đang đi tìm. Tôi đã nhìn thấy và quyết định sẽ NẮM THẬT CHẶT lấy tay Cô!

🌷🌷🌷ĐÔI LỜI NHẮN GỬI BẠN ĐỌC:

Tự nhiên luôn mang đến cho bạn những vị Thầy, mà chỉ khi bị cuộc đời vùi dập, rớt sạch cái tôi KIÊU HÃNH luôn CỐ CHẤP, NGÃ MẠN thì bạn mới nhận ra vị thầy của mình.

Giờ tôi mới biết:

Người thầy giúp tôi nhận ra sự thật về thấy biết chính mình, giúp tôi nhận ra giá trị mà cuộc đời mang lại cho tôi, là người thầy luôn THEO DÕI từng bước chân nơi tôi, cho đến khi tôi VẤP NGÃ, cũng là lúc ĐỦ DUYÊN, thầy mới xuất hiện làm SỢI DÂY THỪNG cho tôi bám chắc mà leo lên khỏi vực sâu thăm thẳm do tâm thức tôi tạo ra.

Thầy của tôi không phải người nổi tiếng, cao sang, được nhiều người kính trọng; cũng không phải là người xuất gia ở chùa, thầy tôi là người BÌNH THƯỜNG cũng như chính tôi. Thầy tôi cũng là một người bình thường như bao nhiêu người khác, nhưng thầy tôi đã tự mình vượt thoát khỏi những hố sâu tiền tài nơi cuộc đời, cho đến danh vọng nơi đạo tu hành do con người mang lại, mà tỏ thấu chân lý sự thật nơi thấy biết con người.

Và thầy tôi đã đem chân lý ấy soi sáng thấy biết nơi tôi, giúp tôi tỏ thấu sự thật về tâm thức chính mình, giải nghiệp về nhân quả mà tâm thức tôi đã trải qua nơi các kiếp quá khứ… bằng cách cho tôi học bài học trực tiếp từ thấy biết Bổn Nguyên.


PHẦN 2: TÁI SINH

5. TRẢI NGHIỆM NĂNG LƯỢNG TRƯỜNG SINH HỌC

Kể từ lần gặp ấy, hai cô cháu bắt đầu liên hệ với nhau qua tin nhắn. Cũng kể từ khi gặp Cô, khi thiền tôi bắt đầu cảm nhận được mọi thứ rõ ràng hơn.

Như đã nói ở phần trước, khi ấy tôi cực kỳ thần tượng NĂNG LƯỢNG, tôi coi nó là một phép màu vi diệu (có lẽ vì lúc đó tôi chỉ mong ước được chữa hết chứng đau khớp). Tôi tìm đọc rất nhiều tài liệu, rồi chẳng hiểu sao lại dẫn dắt tôi đến Trường Sinh Học Nhân Điện. Tôi cũng hiểu về 7 luân xa trên cơ thể người, và nắm rõ nó ở vị trí nào trên người mình.

Và tôi nhớ mãi cái đêm hôm ấy, sau khi nghiên cứu kỹ về Nhân Điện tôi đã thử ngồi thiền. TRỜI ƠI, tôi đã cảm nhận được gần như tất cả những điều mà sách nói!

Tôi đã cảm nhận được vị trí các luân xa đau nhói, và dòng năng lượng chạy vào người tôi từ các luân xa ấy, mạnh đến nỗi cả người tôi tê cứng! Sau đó lồng ngực tôi căng tức, cảm giác có một quả cầu khổng lồ đang hình thành. Nó lăn tới bất kỳ vị trí nào mà tôi mong muốn, cuồn cuộn cuồn cuộn như 1 quả cầu gai khổng lồ. Nó lăn tới đâu là kéo lệch người tôi về phía đó, một sức mạnh vô cùng dữ dội!

Tôi đã truyền quả cầu đó đến tay mình và tưởng tượng nếu có ai bên cạnh, tôi sẽ truyền quả cầu năng lượng đó cho họ. Lúc ấy tôi đã nghĩ có phải đây là cách chữa bệnh trong Trường Sinh Học mà người ta nhắc đến không? Rồi tôi chợt nghĩ đến các bộ phim kiếm hiệp hồi nhỏ hay xem, thế này có khác gì vận nội công trong phim đâu, sao mà giống quá vậy!

Sau khi tôi không nghĩ đến nó nữa thì tôi cảm thấy quả cầu ấy tan biến, nhưng lúc ấy tôi lại thấy từ dưới đáy lưng mình bốc lên 1 làn khí trắng hình con rồng mờ ảo rồi tan biến.

Tôi đã VÔ CÙNG SUNG SƯỚNG vì ngỡ rằng đã tìm ra BẢO BỐI của đời mình. Tôi đã háo hức khoe chồng mình, và anh ấy nói tôi đang bị hoang tưởng. Nhưng điều đó không ngăn được sự háo hức của tôi, cho đến khi Cô dội cho tôi 1 gáo nước lạnh…

“Con đừng theo Nhân Điện vì nó chỉ là từ trường của ngũ hành thôi – y như năng lượng mà hàng ngày con ăn thức ăn vào và chuyển hóa thành cơ năng, nhiệt năng đó vậy. Con dùng ý điều khiển nguồn năng lượng nên nó theo ý con, không phải tự tánh vận hành chỗ nào thiếu bù vào cho đủ.

Nó là năng lượng ngũ hành nên chỉ chữa được cái ngọn của bệnh, chứ không chữa được cái gốc sinh ra bệnh. Nên bệnh hết một thời gian sẽ tái phát mà không dứt hẳn.

Con cũng đừng dùng ý mở luân xa, đừng nghĩ về nó vì con sẽ không làm chủ được thân con, sẽ có rất nhiều nguồn năng lượng bên ngoài vào thân con và muốn chiếm giữ nhà của con. Có người hành thiền Trường Sinh Học mở luân xa số 1 và bị ảo giác nhảy lầu chết đó.”

“Thật vậy hả Cô. Vậy chẳng lẽ còn có năng lượng khác chữa được tận gốc bệnh tật hả Cô?”

“Y vậy, đó là Năng Lượng Thanh Tịnh của BỔN NGUYÊN.”

“Là năng lượng gì lạ vậy Cô? Con chưa nghe nói đến bao giờ.”

“Sau này con sẽ được biết rõ hơn, nhưng con nhớ đó là năng lượng gốc tạo ra vạn vật của vũ trụ càn khôn này. Con nhớ là năng lượng ngũ hành chỉ chữa được cái ngọn, và con sẽ thu năng lượng trược (khí xấu) nơi người bệnh và con phải biết cách xả nó ra ngoài, nếu không xả hết con sẽ ôm bệnh vào người.”

“Con đọc nhiều tài liệu thấy người ta khen quá trời luôn đó cô, mà chính con còn nghĩ là mình đã tìm được bảo bối nữa.”

“Bởi vì siêu nhiên nên mới dễ làm mê hoặc lòng người. Khi con chữa được bệnh liền ham mê chạy theo nó, bị nó dẫn dắt mà đánh mất chính mình lúc nào không hay. Nhưng không ngờ đó chỉ là cái ngọn.”

“Cô ơi con muốn chữa bệnh tận gốc, giờ con phải làm sao đây Cô?”

“Được, từ giờ khi thiền con hãy niệm Nam Mô A Di Đà Phật (nếu bạn theo đạo nào thì hãy niệm danh hiệu vị đứng đầu đạo của bạn), niệm bằng ý đưa lên vùng giữa hai chân mày trước trán. Hãy giải quyết bệnh của con bằng nguồn Năng Lượng Thanh Tịnh của Bổn Nguyên.”

“Bổn Nguyên là ai hả Cô?”

“Sau này tự tánh con sẽ chỉ cho con biết Bổn Nguyên là ai. Giờ con chỉ cần hiểu là Bổn Nguyên bao trùm khắp vũ trụ càn khôn mà chỉ có TÂM THANH TỊNH, thả lỏng mọi ý niệm, nhất tâm niệm Phật bằng tình yêu thương con mới nhận được.”

“Con hiểu rồi, con sẽ làm y những lời Cô dặn. À mà con thiền giờ nào được ạ?”

“Con có thể thiền bất cứ khi nào con rảnh, nhưng thời gian đầu con nên chọn thiền trong những giờ này: 11h30 tối, sáng 4h30 hoặc trưa 11h. Đặc biệt là tối 11h30 lúc đó từ trường lắng đọng, con sẽ nhận được nguồn năng lượng của Bổn Nguyên dồi dào nhất!”

“Vâng con biết rồi, mai con sẽ bắt đầu thiền niệm Phật đây!”

Và kể từ đó tôi chính thức thiền NHẤT TÂM NIỆM PHẬT. Tôi y như như một đứa trẻ bắt đầu bước vào lớp một, tung tăng cắp sách đến trường.

Trong cặp tôi không có gì chỉ có một tập giấy trắng và TÌNH YÊU THƯƠNG làm bút để tôi viết lên những thấy biết đang diễn ra thực tại về tâm thức, mà thực biết thế giới vũ trụ càn khôn và sự vận hành vũ trụ càn khôn ấy nơi thấy biết chính tôi.

Để tôi thấu rõ vũ trụ càn khôn vận hành nơi các danh hiệu Phật mà tôi niệm nơi ý thấy biết chính tôi.

Giờ tôi mới biết, tôi đã được Bổn Nguyên bảo hộ bằng sự lập nguyện nơi thấy biết chính tôi rằng :

Luôn vì chúng sanh đau khổ nơi thế gian, làm tất cả việc, nói tất cả lời chỉ một mục đích duy nhất là tỏ thấu chân lý vô thượng, dụng chân lý ấy soi thấu giúp chúng sanh giải thoát mọi nỗi khổ niềm đau mà phụng sự nhân sinh.

Bổn nguyện ấy bảo hộ tôi luôn sống vì nhân sinh nơi trãi nghiệm muôn pháp thế gian mà tầm cầu chân lý.

Do vậy, tôi không có thời gian và cũng không có nhân duyên tìm hiểu về kinh điển hay những lời các bậc tiền nhân đi trước, nên tôi không lấy thấy biết nơi họ làm khung vàng thước ngọc tạo cái bóng để tôi bám víu mà ngăn che thấy biết chân thật nơi tôi.


6. TỰ CHỮA BỆNH CHO CHÍNH MÌNH KHÔNG CẦN DÙNG THUỐC TRONG 21 NGÀY 

Lúc đầu, mối bận tâm lớn nhất trong đầu tôi lúc ấy là bệnh, tôi liên tục tìm cách giải quyết nó, và đó là lý do làm tôi chăm chỉ thiền mỗi ngày. 

Nhưng kể từ khi bắt đầu con đường tu học, tôi đã dần quên hết mục đích chính là chữa bệnh như lúc ban đầu - và đó cũng chính là cách giải quyết mọi bế tắc sinh ra bệnh tật bằng ý niệm chuyển hướng đến TÌNH YÊU THƯƠNG theo lời Cô dạy.

Chỉ trong 21 ngày tôi đã hoàn toàn THANH LỌC và SỬA CHỮA CƠ THỂ của mình từ bên trong bằng những phương pháp ĐƠN GIẢN, KHÔNG TỐN KÉM, chỉ cần sự QUYẾT TÂM và KIÊN TRÌ:

🌼THIỀN buông thả mọi ý niệm, mong cầu, chỉ nhất tâm niệm Phật bằng tình thương yêu. Và THƯỜNG NIỆM PHẬT bất cứ thời điểm nào trong ngày mà đầu óc rảnh rỗi.

🍀THỞ CHIẾU MINH ngày 2 lần

🌷UỐNG NƯỚC ẤM pha vài hạt muối vào buổi sáng sớm mới ngủ dậy

☘️ĐẠP XE mỗi ngày.

Trong suốt 21 ngày thiền niệm Phật bằng tình yêu thương và THƯỜNG NIỆM PHẬT bất cứ lúc nào rảnh trong ngày, tôi đã tận mắt thấy rất nhiều điều kỳ diệu diễn ra ngay trong cơ thể mình. Tôi sẽ kể dần ở những câu chuyện sau, còn hôm nay tôi sẽ dành thời gian kể về pháp THỞ CHIẾU MINH.

Tôi đã TẬP THỞ CHIẾU MINH 78 nhịp để thải trược khí trong người. Mỗi ngày đều đặn, tôi chăm chỉ thở 2 lần, buổi trưa và tối sau khi ăn 2 tiếng.

Cách thở chỉ đơn giản là hít thật sâu khí vào cho căng đầy bụng và ép đẩy hết khí vừa hít vào ấy ra ngoài bằng mũi. Tư thế thở nằm trên giường, thả lỏng duỗi thẳng tay chân thoải mái, mắt nhắm, cắn răng, co lưỡi đụng hàm trên, suốt thời gian thở luôn chú ý đến cái rốn của mình. Sự hít thở ấy diễn ra nơi bụng và mũi, khi mũi hít khí vào thì ý khởi nghĩ: "Đầy rún, đầy bụng, tung lên bộ đầu". Bụng phình căng đầy khí đưa rốn lên cao, rồi thở ra khí luân chuyển theo mũi ra ngoài kéo bụng xẹp xuống sát lưng.

Dòng khí luân chuyển ấy tạo lực tác động vào hệ thống ruột, mật, thận mà đẩy khí ứ trệ nơi ruột, mật, thận theo các lỗ chân lông trên thân mà tống ra ngoài bằng dạng khí nơi hậu môn, hay bài tiết qua đường tiểu tiện và đại tiện.

Vừa thở vừa đếm ngược, hít vào - thở ra là một nhịp. Ban đầu, hít thở SÂU 12 nhịp (mỗi nhịp hít thở bắt đầu đếm từ 12, dần dần xuống đến 1), sau đó hít thở nhẹ nhàng khoảng 5 hơi.

Sau đó, tiếp tục hít thở sâu 11 nhịp (mỗi nhịp hít thở bắt đầu đếm từ 11, dần dần xuống đến 1) rồi hít thở bình thường 5 hơi.

Tiếp đến là hít thở sâu 10 nhịp (đếm từ 10 xuống đến 1) rồi lại thở bình thường 5 hơi.

Sau đó, cứ tiếp tục xuống 9 nhịp hít thở sâu, rồi 8 nhịp… rồi cứ như vậy đếm ngược cho đến khi về 1 là kết thúc.

Thở Chiếu Minh cũng là một cách thiền, tất cả sự tập trung của tôi đều hướng tới cái rốn của mình, và tôi phải hết sức chú tâm thì mới không bị quên nhịp đếm và không bị cơn buồn ngủ dắt đi. Và nhất định phải KIÊN TRÌ đến cùng.

Luyện tập được một thời gian tôi bắt đầu thấy hiệu quả rõ rệt, chủ yếu là việc mình hay xì hơi, ợ hay buồn tiểu. Tôi hiểu là các khí xấu trong người đang được đào thải ra ngoài bằng các cách khác nhau…

Ngoài thở Chiếu Minh, tôi cũng thực hiện nghiêm túc việc mỗi buổi sáng dậy sớm trong 21 ngày liên tiếp, UỐNG 1 CỐC NƯỚC ẤM thật to và bỏ vào vài hạt muối hột để thải độc ruột và thận.

Cũng trong thời gian ấy tôi cũng cảm thấy thích ĐẠP XE buổi sáng sớm. Mỗi lần đạp xe thật tuyệt, tôi vừa đạp xe vừa hít thở sâu đều đặn, cảm thấy trong người mình có luồng sinh khí mới mẻ, thanh mát. Khi ấy những cơn gió đã vuốt ve mái tóc tôi, những tiếng sóng biển rì rào đã mát xa tai cho tôi.

Mặt trời lúc nào cũng vậy, luôn ấm áp, rực rỡ với ánh hào quang chiếu sáng muôn nơi. Cuộc sống này thật đẹp, ấy mà bấy lâu nay tôi cứ cắm đầu vào cái mớ bòng bong mà không nhận ra…

Trong 21 ngày liên tục này, tôi vừa thiền, kết hợp với thở, vừa uống nước và đạp xe. Tôi cảm thấy mình giống như con sâu trong kén và dần chuyển hóa, cảm thấy rõ ràng sự thay đổi của cơ thể chính mình.

Tất cả hệ bài tiết của tôi đều HOẠT ĐỘNG HẾT CÔNG SUẤT. Tôi thấy mình đi tiểu liên tục, nước tiểu thời gian đầu xậm màu nhưng sau này nhạt dần, những ngày đầu mồ hôi cũng ra nhiều hơn, còn ra cả huyết trắng lẫn máu kinh tích tụ. Nói ra cũng thật xấu hổ, nhưng buồn cười nhất là thời gian ấy tôi như quả bom thối bị chồng con hắt hủi, vì ngồi đâu cũng xì hơi, mà mùi thật là kinh dị… Nhất là chứng hôi nách của tôi cũng giảm hẳn sau 21 ngày, và đến bây giờ thì tôi không còn bị hôi nách nữa. Cảm giác y như tất cả những cặn bẩn trong người mình được đào thải ra vậy.

Tôi đã thay đổi hoàn toàn cơ thể mình chỉ sau 21 ngày. Cơ thể khỏe khoắn hơn và tinh thần thoải mái hơn xưa rất nhiều. Sau này tôi vẫn tiếp tục thiền, đạp xe, hít thở sâu và sáng sáng lại uống 1 cốc nước ấm lớn có nghệ với mật ong, hoặc chanh với mật ong để duy trì sức khỏe của mình.

🍀☘️🍀ĐÔI LỜI TÂM SỰ VỚI BẠN ĐỌC VỀ PHÁP THỞ CHIẾU MINH

Khi hành pháp thở chiếu minh tôi nhận ra nhiều điều: cơ thể tôi giải phóng những năng lượng dưới dạng khí tụ đọng, ứ trệ nơi các kinh mạch, khiến cho năng lượng chẳng thể lưu thông qua kinh mạch truyền đến các bộ phận nơi cơ thể, làm cho các bộ phận ấy thiếu năng lượng vận hành chính nó. Do vậy, các bộ phận cơ thể thiếu năng lượng sẽ không thể vận hành trơn tru, dẫn đến sự hư hoại mà sanh nên bệnh tật nơi cơ thể chính ta.

Một bộ phận cơ thể bị hư hoại sẽ khiến các bộ phận khác gánh thế chức năng mà hoạt động quá mức, sẽ dẫn đến hư hoại là điều tất nhiên.

🌸Giờ tôi mới biết:

THỞ CHIẾU MINH là hình thức dùng lực thở sâu tác động dẫn khí làm thông sự bế tắc năng lượng bị ứ trệ dưới dạng khí nơi kinh mạch. Thở sâu cũng là hình thức nạp khí oxy qua kinh mạch dẫn đến các bộ phận nơi cơ thể, để các bộ phận ấy đủ oxy mà vận hành chức năng chính nó tạo dưỡng chất nuôi cơ thể sống mà phát triển trí tuệ chân thật nơi não bộ, là mục đích tối thượng nơi kiếp làm thân người khó được.

Cơ thể ta được nạp rất nhiều nguồn năng lượng qua sự ăn uống, hít thở, ngủ nghỉ, năng lượng ấy sẽ được các bộ phận cơ thể chuyển hóa theo đúng chức năng làm việc bộ phận ấy mà đáp ứng dinh dưỡng nuôi sống cơ thể con người. Riêng chỉ có năng lượng sanh tạo từ sự tư duy phản tỉnh khi ta đối diện với mọi điều khuất tất diễn ra xung quanh ta, mà ta chưa biết rõ nguyên nhân, mới là năng lượng tỉnh giác, là năng lượng hoàn thiện giúp ta giải quyết mọi bế tắc, chướng ngại nơi thân tâm ta trong cuộc sống này.

Cuộc sống nơi ta luôn bị cảnh vật cho đến những người xung quanh tác động làm cho ta luôn phóng những ý niệm về đối thể thấy biết chính ta, về những người mà ta gặp, về công việc mà ta đang làm v.v... Vô tình ta luôn bị đánh mất năng lượng nơi sự phóng niệm ấy, khiến cho năng lượng cung và cầu nơi cơ thể bị mất thăng bằng, cung chẳng thể đáp ứng đủ cho cầu. Khi mà sự phóng năng lượng nơi ý niệm về người, về hoàn cảnh sống nơi ta là liên tục, khiến ta bị mất năng lượng, dẫn đến thiếu hụt năng lượng, chẳng thể vận hành được trí não ta tư duy thông suốt, tạo nên sự bế tắc mà đau khổ, phiền não, bất an v.v...

Hiểu được vậy, ta tập trung năng lượng cho sự tư duy phản tỉnh nơi ý niệm chính ta về người và cảnh vật mà truy tìm nguyên nhân, rõ thấu nguyên nhân mà khai phóng mọi dòng khí năng lượng ứ trệ tích tụ gây ra bế tắc nơi tâm thức ta, giúp nó quy về nơi nó sanh ra, mà tái tạo nuôi dưỡng trí não, để trí não luôn đủ năng lượng vận hành mà tư duy sáng tạo, giúp thấy biết nơi ta luôn mới từ nhận thức mà tương ứng nơi hành động, giúp ta làm tròn trách nhiệm phụng sự nhân sinh nơi sự hiểu biết trong tình yêu thương bất diệt đó vậy.


7. ÁNH SÁNG CÓ ĐUÔI NHƯ SAO CHỔI CHẠY VÀO TRÁN TÔI

Tôi đã biết Pháp Thở Chiếu Minh giúp thanh lọc cơ thể vật lý, nhưng nó sẽ không phát huy hiệu quả tốt như vậy, nếu không có sự trợ giúp của THIỀN và THƯỜNG HẰNG NIỆM PHẬT. Vì chỉ như vậy tôi mới thực sống cùng Năng Lượng Thanh Tịnh Bổn Nguyên mà nâng cao NỘI LỰC cho chính mình. 

Tôi luôn khắc ghi trong tâm rằng, khi thiền tôi chẳng làm gì khác, ngoài việc NHẤT TÂM NIỆM PHẬT BẰNG TÌNH YÊU THƯƠNG. Và THƯỜNG NIỆM PHẬT BẤT CỨ THỜI ĐIỂM NÀO RẢNH RỖI trong ngày.

Việc thường xuyên niệm Phật bất cứ lúc nào trong ngày giúp tập luyện cho đầu tôi không bị cuốn theo bởi những ý nghĩ vẩn vơ, và mỗi câu niệm Phật sẽ tích luỹ dần nội lực nơi chính tôi.

Ngày trước không có niệm Phật, tôi luôn bị bủa vây bởi sự sợ hãi không – rõ – lý – do, tôi luôn thấy mình chơi vơi giữa khoảng không tối tăm rộng lớn. Nhưng từ khi niệm Phật, tôi trở nên kiên định và có niềm tin mãnh liệt vào từng câu chữ: “Có Phật ở đây, hãy yên tâm nhé!”

Rồi không biết từ khi nào, mỗi khi thiền, tôi thấy mình giống như tấm gương, mọi ý nghĩ hiện lên tấm gương giống như những chiếc xe, nó đến rồi đi vụt qua chứ không còn cuốn tôi đi như trước. Tôi cũng không cần phải ấn hai con mắt để tịnh tâm như trước nữa, mà nhập thiền nhẹ nhàng, hoàn toàn tự nhiên.

Những ngày đầu, MÂY MÙ DÀY ĐẶC vẫn che kín và những quầng năng lượng vẫn đan vào nhau thành vòng phà vào người tôi. Nhưng tôi không quan tâm, không mong cầu, không nóng vội, chỉ AN NHIÊN TỰ TẠI niệm Phật và quan sát những ý niệm đến rồi đi.

Dần theo thời gian, trán tôi bắt đầu cảm thấy ĐAU NHỨC, y như từng câu niệm Phật đang tạo thành sức mạnh để đục lỗ trên trán. Tôi có hỏi Cô, thì Cô nói:

"Đó là hiện tượng khai mở luân xa trán, còn gọi là “thiên mục” tự nhiên, khi con ĐỦ LỰC và ĐỦ DUYÊN luân xa sẽ tự mở hệt như con gà con khi đủ lực sẽ tự đục vỏ trứng chui ra."

Rồi bỗng một ngày, tôi NHÌN THẤY ÁNH SÁNG rất lớn từ bên ngoài chui vào trán mình. Ánh sáng ấy rất sáng như những TIA SÉT, và có đuôi dài xòe ra như SAO CHỔI. Ánh sáng đến rồi chui vào trán tôi nhẹ nhàng, thanh mát chứ không dữ dội như năng lượng trước kia tôi từng trải nghiệm.

“Trời ơi! Đây có phải là Năng Lượng Thanh Tịnh mà Cô nói không? Thật là vi diệu!”

Ánh sáng cứ TỰ ĐỘNG đi vào người tôi, liên tục hết ngôi sao chổi này đến sao chổi khác suốt các buổi thiền - để nạp thêm năng lượng mà bấy lâu nay tôi bị hao mòn.

Tôi đã vô cùng phấn khích và háo hức kể cho Cô nghe bảo bối vi diệu mà mình vừa tìm thấy được, nhưng lại một lần nữa, Cô lại khiến tôi thất vọng tràn trề:

“Con đừng quan tâm tới ánh sáng ấy. Có nhiều người ham năng lượng, mê nó mà bị nó dẫn dắt, không thể tìm về chính mình. Ánh sáng ấy cũng chỉ bình thường thôi.”

“Chẳng lẽ lại có cái khác tuyệt diệu hơn nữa sao Cô? Vâng con sẽ nghe lời Cô không quan tâm đến nó nữa! Bình thường thôi!”

Sau này tôi cũng không còn quan tâm tới ánh sáng đó nữa và lẽ tất nhiên, cũng không còn nhìn thấy nó, nhưng tôi biết nó LUÔN HIỆN HỮU và NẠP NĂNG LƯỢNG LIÊN TỤC cho tôi mỗi khi tĩnh tâm. Và quả thật, sau này tôi còn nhìn thấy nhiều điều tuyệt diệu hơn thế.

Kể từ khi nhìn thấy ánh sáng, tôi bắt đầu cảm nhận được khí trong người luân chuyển và TỰ ĐỘNG vặn vẹo cơ thể mình.

Một ngày nọ, tôi đã rất ngạc nhiên khi khí trong người TỰ ĐỘNG đẩy đầu tôi nghiêng mạnh sang phải.
Lúc đó, tôi cứ nghĩ chắc do tư thế sai, nên đã sửa lại ngồi thẳng ngay ngắn, nhưng rồi nó lại đẩy đầu tôi nghiêng qua tiếp. Lúc này tôi mới hiểu, chắc chắn cơ thể tôi có ý đồ gì đó, nên tôi thuận theo và chỉ theo dõi. Bắt đầu có một lực nén gì đó từ bên ngoài, nén chặt lấy tôi và cảm tưởng nó đang ép người tôi bẹp dí từ trên xuống.

Trời ơi! Tôi bắt đầu nhìn thấy từ trên trời có 1 CỘT ÁNH SÁNG RẤT LỚN chiếu thẳng vào cổ và vai trái! Cảm giác khi ấy đau nhói, mỏi và nặng vô cùng, nhưng tôi vẫn cố gắng kiên quyết giữ nguyên tư thế, vì biết rằng năng lượng đang vận hành để giúp tôi! Ánh sáng ấy đang giúp đả thông kinh mạch bế tắc cho tôi!

Khi cột sáng rút đi thì đầu tôi trả về vị trí cũ như chưa có chuyện gì xảy ra. Trời ơi, tin được không, sao mà hay quá vậy! Hồi giờ tôi chưa từng thấy cơ thể mình phối hợp ăn ý như thế mà hoàn toàn KHÔNG THEO CHỦ Ý của mình mới hay!

Rồi tôi lại kể cho Cô nghe, nhưng tôi thừa biết thể nào cũng bị Cô làm cho mất hứng nên tôi đã kể với giọng điệu “Bình Thường Thôi!” (nhưng thực ra khi ấy trong lòng tôi cực kỳ háo hức vì mỗi ngày đều phát hiện ra những cái mới!)

Những chuỗi ngày tiếp theo, đầu tôi cứ hết bị đẩy vẹo bên trái, vẹo sang phải, ngửa ra sau, cúi đằng trước hay cái lưng bị đẩy hẳn nghiêng sang một bên. Tất cả đều là do khí trong người tôi tác động vào đầu, cổ và thân mà đẩy nó một cách TỰ ĐỘNG và ánh sáng HOÀN TOÀN TỰ VẬN HÀNH, tôi chỉ có một lòng NHẤT TÂM NIỆM PHẬT mà thôi...

Sau một thời gian bị vặn vẹo đủ kiểu để năng lượng làm thông kinh mạch, phép màu đã thực sự đến với tôi khi các triệu chứng của bệnh viêm khớp đã GIẢM DẦN và BIẾN MẤT sau 21 ngày, những chỗ sưng vùng đầu gối, cổ với ngón tay cũng không còn. Người tôi nhẹ như mây, chưa bao giờ tôi cảm thấy mình khỏe và tràn đầy năng lượng như vậy, ngay cả việc thức đêm chăm con nhỏ cũng không còn ảnh hưởng đến tinh thần của tôi như trước nữa.

Đã có thời gian suốt năm năm liền, tôi luôn thức 3-4 lần/ đêm để chăm 2 đứa con nhỏ suốt ngày vặt vẹo vì bệnh tật, khóc đêm... nên gần như bị mất ngủ liên tục.

Tôi luôn ở trạng thái buồn ngủ vì thiếu năng lượng vận hành não bộ và các bộ phận cơ thể, và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến bệnh trầm cảm nơi tôi.
Tôi sẽ kể câu chuyện về các con tôi ở những phần sau.

🌼🌼🌼TÓM LẠI, phương pháp luyện tập nơi tôi rất ĐƠN GIẢN, chỉ cần KIÊN TRÌ và KIÊN ĐỊNH THIỀN niệm Phật bằng tình yêu thương, kết hợp THỞ CHIẾU MINH, uống nước ấm vào buổi sáng và vận động thể thao bằng việc đạp xe đạp hay đi bộ thả lỏng cơ thể.

Tôi đã chuyên tâm hành trì và luyện tập, chỉ một thời gian ngắn là 21 ngày, các triệu chứng đau nhức nơi khớp gối, cổ và tay đã bớt lần và dứt hẳn mà tôi hoàn toàn không móng niệm mong cầu, không dùng thuốc can thiệp.

Với những gì tôi ĐÃ TRẢI NGHIỆM và CHỨNG THỰC nó nơi thân tâm, tôi TUYỆT ĐỐI tin tưởng và thấu biết rằng:

NĂNG LƯỢNG THANH TỊNH BỔN NGUYÊN là năng lượng HOÀN THIỆN mọi khuyết khảm nơi tâm thức con người, là năng lượng gốc luôn sửa chữa mọi hư hỏng dẫn đến bệnh tật, làm cho cơ thể tôi hết bệnh - mà chỉ khi DỨT BẶT mọi mong cầu nơi ý niệm, CHUYÊN TÂM hành trì, DŨNG MÃNH vượt thoát những ý niệm mà ta đã lập định nó, rồi bám víu nó tạo nên hệ tư tưởng đóng hộp nơi não bộ ta - thì ta mới GIẢI THOÁT những tư tưởng bế tắc ấy, mà thẩm thấu hòa cùng Năng Lượng Bổn Nguyên luôn vận hành mà hoàn thiện khuyết khảm nơi thân tâm ta.

Sau này khi hướng dẫn người thân trong gia đình, tôi luôn nhấn mạnh TẦM QUAN TRỌNG của việc GIA TĂNG NỘI LỰC nơi Ý CHÍ KIÊN ĐỊNH chính mình, đừng để mình bị phụ thuộc và trói buộc bởi những thứ bên ngoài.

Mặc dù cơ thể ta luôn tương tác cùng muôn loại vạn vật xung quanh ta trong nhân duyên chính nó. Nhưng ý ta chẳng bị nó trói buộc bởi suy nghĩ phải cần hay không cần có nó.



8. CƠ THỂ TÔI TỰ ĐỘNG CHỮA BỆNH NGAY KHI PHÁT HIỆN MẦM BỆNH

Có người từng hỏi tôi vì sao tôi lại KIÊN TRÌ thiền như vậy, tôi chỉ nói đơn giản là mình RẤT THÍCH THIỀN. Bởi lẽ mỗi ngày Bổn Nguyên đều dạy tôi những bài học mới, những thứ CHƯA BAO GIỜ NHÌN THẤY TRƯỚC ĐÂY hàng ngày. Tôi tiếp nhận bài học của mình với một tâm trạng tò mò, háo hức và kinh ngạc… 

Kể từ khi sống cùng Năng Lượng Thanh Tịnh Bổn Nguyên, tôi không còn cảm giác mệt mỏi uể oải như trước nữa. Nhờ vậy mà tôi tập trung hơn, đầu óc minh mẫn hơn, khả năng phân tích xử lý công việc tốt hơn và nhất là thấy yêu đời, yêu cuộc sống này hơn xưa rất nhiều. Tôi cũng không cần phải uống bất cứ một viên thuốc nào, cho dù là cảm vặt.

Có một lần tôi nhớ mãi, lần đó không hiểu sao tôi thiền mà cơ thể cứ bắt tôi tập trung vào HƠI THỞ. Cảm thấy hơi thở mình không đều, nhịp thở hỗn loạn khiến tôi chẳng thể tập trung. Mặc dù thấy hơi lạ nhưng tôi vẫn ngồi hít thở sâu giống như thở Chiếu Minh, phối hợp nhịp nhàng giữa hơi thở và bụng. Coi như suốt cả buổi thiền hôm ấy, tôi chỉ toàn là thở mà không nhìn thấy gì, thật là lạ.

Tôi cảm thấy lo lắng và nói với Cô về hiện tượng này, Cô nói tôi cứ để im và theo dõi xem tánh thể đang muốn dạy tôi điều gì.

Ở buổi thiền tiếp theo, tự tánh lại bắt tôi tập trung vào hơi thở. Lần này, tôi không chống cự, không hoang mang mà chỉ theo dõi và tiếp tục thở đều đặn. Khí trong người tôi bắt đầu tụ lại ở cổ, rồi tôi thở ra đường mũi những hơi thở trắng như mây. Cứ như vậy liên tục, khí đi từ cổ lên mũi thở ra ngoài, rồi lại có khí xuyên vô họng, lên mũi, ra ngoài tạo thành vòng tròn…

Thiền xong tôi mới phát hiện ra, qua nay tánh thể vận hành khí tự chữa chứng VIÊM HỌNG nơi tôi. Tôi biết mình bị đau họng, nhưng không để ý đến nó, và cũng không có ý định chữa nó, ai ngờ cơ thể tôi tự phát hiện ra và tự điều khiển năng lượng để xử lý – tất cả đều HOÀN TOÀN TỰ ĐỘNG trong sự kinh ngạc của tôi. Sau khi thiền tôi đã hoàn toàn hết triệu chứng đau rát họng – mà triệu chứng này nếu để thêm vài hôm nữa sẽ chuyển qua ho, sổ mũi... Đó là lần đầu tiên tôi phát hiện khả năng CHỮA BỆNH TỰ ĐỘNG nơi chính cơ thể mình.

Một câu chuyện nữa là khi tôi bị ĐAU RĂNG KHÔN, nhức kinh khủng, hơi sốt và uể oải. Lại một lần nữa tự tánh bắt tôi tập trung vào hơi thở. Sau đó tôi đã nhìn thấy khí trong người mình tụ lại tại vị trí cái răng đau như một đám mây trắng. Tôi cứ tiếp tục niệm Phật và dành TÌNH YÊU THƯƠNG cho chiếc răng tội nghiệp của mình, rồi ở trong đám mây ấy bắt đầu lóe ra những tia sáng. Tất cả những gì đang diễn ra thật kỳ diệu. Chưa bao giờ tôi thấy cơ thể mình hoạt động tuyệt vời như thế. Sáng hôm sau khi ngủ dậy chiếc răng ấy đã HOÀN TOÀN HẾT ĐAU, và sau này nó có nhú lên dần dần nhưng cũng không còn làm tôi bận tâm nữa...

Có lần tôi bị ĐAU BỤNG TIÊU CHẢY sau khi ăn hải sản. Mặc dù đau méo mặt nhưng tôi vẫn thấy phấn khởi trong lòng vì có bệnh để thí nghiệm tiếp. Tôi thiền, an nhiên niệm Phật hướng TÌNH THƯƠNG YÊU đến cái bụng đang đau dữ dội của mình. Khí trong người tôi khi ấy bắt đầu cuộn tròn, nó xoay vòng vòng rồi bốc lên thoát ra ngoài theo phương thẳng đứng. Tôi cứ ngồi yên niệm Phật và theo dõi vậy cho đến khi không còn thấy khí bốc lên nữa. Thiền xong tôi đã liên tục xì hơi thả bom, đi cầu thêm vài lần nữa rồi đi ngủ. Sáng hôm sau, tôi khỏe re như chưa từng có chuyện gì xảy ra mà không cần phải đụng tới một viên thuốc.

Tôi đã HÒA CÙNG BỔN NGUYÊN mà vận hành thành thạo Năng Lượng Thanh Tịnh sửa chữa những chỗ hư hỏng nơi các bộ phận cơ thể, bù đắp sự thiếu hụt năng lượng – mà sự thiếu hụt ấy khiến các bộ phận chẳng hoạt động tốt. Từ đó vận hành tốt các chức năng nơi chúng, phục hồi sức khỏe nơi tôi, cũng chính là hoàn thiện thấy biết tạo nên sự sống nơi tôi chỉ bằng tình YÊU THƯƠNG duy nhất.

Hồi mới phát hiện ra nguyên lý tự chữa bệnh bằng khí nơi cơ thể mình, tôi trở nên hơi ngược đời, thấy mình hào hứng khi phát hiện bệnh nơi cơ thể. Bởi lẽ tôi tò mò không biết cơ thể mình sẽ chữa kiểu gì và cũng có phần tự hào về khả năng này. Nhưng sau này nghe lời Cô, tôi cũng KHÔNG CÒN QUAN TÂM đến khả năng tự chữa bệnh này nữa vì nó cũng chỉ là “Bình Thường Thôi!” Và lẽ tất nhiên, tôi cũng không còn nhìn thấy khí trong người luân chuyển tự chữa bệnh. Nhưng tôi biết nó vẫn LUÔN VẬN HÀNH để giữ cơ thể tôi luôn ở trạng thái cân bằng, khỏe mạnh, không bệnh tật…

Trải nghiệm tự chữa bệnh nơi tôi rất nhiều, kể ra bao nhiêu trang cũng không hết, nhưng tôi không vì thế mà ham mê. Tôi hiểu rằng đây cũng chỉ là một trong những bài học Bổn Nguyên cho tôi TRẢI NGHIỆM và THỰC CHỨNG để tự NHẬN RA CHÍNH MÌNH mà thôi.

Tôi hiểu nhiều hơn về cơ thể mình, hãy YÊU THƯƠNG lấy nó. Mình bị đau bị bệnh, thì chính những chúng sinh tại nơi ấy cũng đang đau bệnh khổ sở. Hãy dành tình yêu thương hướng tới những chúng sinh đang khổ sở ấy trong thân mình, khổ sở nơi chúng sanh cơ thể ta sẽ tan biến khi tình yêu thương nơi ta hiện diện nơi chính nó. Tôi đã nhận ra sự thật tuyệt vời nơi tình yêu thương chính tôi, cũng chính là tình yêu thương mà đấng tạo hóa Bổn Nguyên luôn dụng nó tạo nên muôn loài vạn vật, rồi dụng nó sữa chữa, bù đắp mà hoàn thiện mọi khuyết khảm do sự thiếu hiểu biết nơi thấy biết con người tạo ra, mà thẩm thấu chân lý:

TÌNH YÊU THƯƠNG CHÍNH LÀ LIỀU THUỐC DUY NHẤT CHỮA LÀNH MỌI VẾT THƯƠNG.

Tôi cũng nhận ra rằng: HƠI THỞ là sự sống của chính tôi, khi tôi thấy ánh sáng liền bị nó mê hoặc mà đánh mất hơi thở, chính là đánh mất sự sống thấy biết chính tôi. Tự tánh đã dạy tôi tập trung vào hơi thở, cũng chính là tập trung vào chính mình để nâng cao nội lực bản thân mà hòa cùng tha lực nơi càn khôn vũ trụ mà cơ thể tôi đang sống cùng.

CƠ THỂ TA CÓ THỂ TỰ CHỮA BỆNH CHO CHÍNH MÌNH BẰNG NGUỒN NĂNG LƯỢNG THƯƠNG YÊU CHÍNH TA, mà làm lành những vết thương do sự thiếu hiểu biết nơi ta tạo ra, đừng tìm kiếm và phụ thuộc vào những pháp bên ngoài mà đánh mất nguồn năng lượng yêu thương tuyệt diệu nơi chính ta.

Tất nhiên, tất cả các pháp có mặt hiện diện xung quanh ta đều mang một chức năng chính nó là giúp ta nhận diện lại nguồn năng lượng tình yêu thương chính ta, nên ta luôn TRI ÂN TẤT CẢ mà phụng sự các pháp bằng thấy biết sự thật chính ta.


9. TÔI LÀ TÂM NHƯ! 

Từ khi còn mẫu giáo, tôi đã như một bà cụ non, thường xuyên đứng chắp tay sau đít mà nhìn lên bầu trời đầy sao mà nghĩ rằng: “Tôi có một sứ mệnh gì đó trong cuộc đời này”. Trong suốt 20 năm sau, thắc mắc ấy cứ mãi đi theo tôi nhưng vẫn cứ mịt mù, tôi càng cố gắng tìm thì càng rớt xuống tận cùng của vực thẳm. Thời gian bị bao phủ bởi bóng tối u mê, tôi đã luôn bật khóc vì thất vọng với chính mình, vì tôi biết tôi có nhiệm vụ phải mang lại giá trị gì đó, nhưng càng ngày càng thấy lực bất tòng tâm...

Kể từ khi hòa cùng Bổn Nguyên, tôi thấy cuộc sống mình như sang một trang mới, tràn đầy năng lượng yêu thương làm tôi luôn vui vẻ, háo hức khám phá mọi sự việc chung quanh tôi, tìm tòi học hỏi giá trị mà chúng mang lại cho cuộc sống nơi tôi. Nên tôi có niềm tin sắt đá vào con đường mình đang đi.

Quan trọng hơn cả là có gì đó mách bảo tôi rằng, Bổn Nguyên sẽ chỉ tôi biết NHIỆM VỤ mà tôi phải làm ở đời này là gì.

Khi ấy trong đầu tôi luôn có câu hỏi bấy lâu nay mình luôn thắc mắc: TÔI LÀ AI?

Trong một buổi thiền, bất giác tôi đã trải lòng mình mà đem thắc mắc ấy hỏi Bổn Nguyên: “Bổn Nguyên ơi, xin cho con biết con là ai?”

Câu hỏi vừa dứt, tôi thấy đầu mình bắt đầu căng ra; tôi thấy mình bay, bay mãi qua muôn trùng mây khói, rồi bay luôn ra ngoài vũ trụ bao la có những vì sao lấp lánh. Cuối cùng tôi nhận được câu trả lời vọng lại từ vũ trụ thăm thẳm: “TÂM NHƯ”.

“Con tên là Tâm Như ! Tên nhiều đời nhiều kiếp của con là Tâm Như!” – Tôi đã nghĩ thầm trong đầu như vậy.

Rồi tiếp tục chẳng hiểu sao trong đầu tôi lại tự nhiên vang lên câu hỏi: “Ân Sư của con là ai?” – câu hỏi mà tôi không hiểu ở đâu xuất hiện nơi tâm trí tôi, và cuối cùng tôi cũng nhận được câu trả lời bằng những gì Bổn Nguyên cho tôi thấy biết.

Kết thúc buổi thiền hôm ấy, tôi đã không giấu nổi sự phấn khích, ngay lập tức tôi đã nhắn kể với Cô ngay:

“Trời ơi hay quá Cô à, mỗi ngày Bổn Nguyên lại cho con biết những điều mới! Hôm nay con phát hiện ra tên của con là Tâm Như đó! Hồi nãy, lúc con thiền, Bổn Nguyên có cho con bay qua mây, bay vào vũ trụ với các vì sao, và cho biết con là ai. Cảm giác đó còn tuyệt vời hơn cả những gì con biết về năng lượng nữa Cô à!”

“Phải, Tâm Như chính là tên con. Tâm Như nghĩa là Phật Tánh.”

“Tên này hay quá Cô, mà Cô có thể chỉ thêm cho con về Phật Tánh không? Con tìm trên mạng không có!”

“Phật Tánh không ở bên ngoài tâm thức con để con đi tìm nó. Ví như cái đầu nơi con đã có sẵn, con lại đem đầu đi tìm đầu, thì sao mà tìm ra? Máu con vận chuyển từ tim đi nuôi cơ thể con, bao tử co bóp thức ăn, hơi thở con ra vào qua miệng và mũi, tất cả đều do Phật Tánh là tánh thể tự thấy biết vận hành. Khi con mới sanh, con biết động đậy co duỗi chân tay, con biết khóc biết cười, biết ngậm vú mẹ… đều là Phật Tánh dạy con. Cho nên, con đi tìm Phật Tánh chính là con đem Phật Tánh đi tìm Phật Tánh, và con chỉ có thể chùn chân mỏi gối mà chết cái tâm thức đi tìm mới thấu tỏ tâm thức chính con.”

“Dạ con hiểu rồi, con hiểu ý nghĩa tên con rồi.”

Rồi tôi cũng khoe Cô là tôi vừa nhìn thấy Ân Sư của mình:

“Hồi nãy trong đầu con tự nhiên vang lên câu hỏi “Ân Sư của con là ai”, con thấy đầu con căng ra và con bay mãi, bay mãi vượt qua bao nhiêu mây và ánh sáng. Rồi con dừng lại ở một nơi có ánh sáng chói lòa, năng lượng tỏa ra lớn vô cùng, bao phủ hết thân con. Bất chợt con nhìn thấy có ai đó ngồi trên đài sen, tất cả đều màu trắng bay vụt xẹt qua rất nhanh, nhanh quá con không thể nhìn kịp. Con không biết mình có bị ảo giác không, nhưng con cảm thấy nơi đó rất thật, từng ánh sáng năng lượng chiếu vào người con đều cho cảm nhận rất thật!”

“Tất cả mọi hình ảnh nơi thấy biết con đều là thật, nhưng con đừng bám víu vào hình ảnh cho là thật ấy mà tạo cảm thọ chấp vào nó, để rồi con chẳng thể tiến xa hơn.”

“Vậy mình chỉ xem đó giống như những ý nghĩ thoáng qua thôi phải không Cô? Mình không để tâm tới nó nữa mà vẫn an nhiên tự tại thôi đúng không Cô hén?”

“Đúng rồi, những gì con thấy chỉ để trả lời câu hỏi Ân Sư là ai. Nhưng con chưa nhận được rõ ràng vì duyên chưa đủ và con chưa đủ lực thông tỏ thấy biết nơi con ”

“Ân Sư nghĩa là gì hả Cô?”

“Ân Sư là người thầy luôn hướng dẫn mình tu đạo, dạy dỗ bảo hộ mình luôn đi đúng con đường tu đạo giải thoát. Sau này khi đủ duyên, con sẽ tự biết Ân Sư mình là ai.”

“Mà không biết khi nào thì đủ duyên Cô nhỉ?”

“Đủ duyên là đến thời đến khắc, con hỏi biết khi nào đều là trí mong cầu sẽ ngăn che bít lối giác thể nơi con. Ví như mùa xuân là tiết để cho hoa mai nở, đến lúc mai nở là biết mùa xuân, con trông chờ đều là trí tưởng.”

“Dạ con hiểu rồi, con sẽ không mong cầu nữa mà chỉ an nhiên niệm Phật. Cảm ơn Cô nhiều nè.”

Tôi cảm thấy mình bây giờ giống như một con bướm đang tách kén chuẩn bị bay ra khám phá thế giới. Cũng vừa thấy mình giống như một cô học trò nhỏ đang háo hức đi học mỗi ngày. Những bài học rút ra từ những trải nghiệm, đều được tôi ghi chép lại cẩn thận. Với tinh thần sẵn sàng tiếp nhận cái mới, tôi không xem nó là khuôn vàng thước ngọc để bám chấp vào.

Mặc dù “NĂNG LƯỢNG BỔN NGUYÊN ” rất tuyệt vời, chữa được tất cả bệnh tật, phục hồi chân khí hoàn thiện sức khỏe, làm cho tôi tràn đầy năng lượng yêu mình, yêu người, yêu đời sống mà tận lực phụng sự. Nhưng tôi không vì thế mà ham mê, bấu víu vào nó. Bởi vì, mỗi ngày, mỗi giờ, cho đến mỗi khắc Bổn Nguyên đều theo cảnh hiển bày trước mắt tôi mà dạy cho tôi mỗi bài học khác nhau, làm cho tôi hiểu biết rõ ràng, khúc chiết, minh bạch mọi sự việc diễn ra xung quanh tôi, cho đến các cảnh diễn ra trong giấc ngủ tôi.

Đó là LẦN ĐẦU TIÊN BỔN NGUYÊN dạy tôi biết đặt ra những câu hỏi và truy vấn nó, và tôi vô cùng ngạc nhiên và phấn khích khi biết được câu trả lời. Lúc ấy, tôi đã hiểu lý do vì sao trong quá khứ, tôi càng đi tìm sứ mạng nơi ý nghĩ hình thành trong trí não tôi ,tôi càng cảm thấy thất vọng với bản thân. Bởi sứ mệnh cũng như cái tên TÂM NHƯ nơi tôi, nó không nằm ngoài tôi để tôi đi tìm nó. Tôi đã bị chùn chân, mỏi gối, mệt mỏi và quyết định dừng lại, không tìm kiếm nó nữa. Đó cũng là lúc tôi về lại BỔN TÂM mình, mà NHẬN DIỆN ra nó nơi chính tôi.

TÂM NHƯ chính là tôi.

10. GẶP LẠI TIỀN KIẾP VÀ BÀI HỌC VỀ TÂM THỨC BỔN NGUYÊN 

Sau lần đầu tiên được Bổn Nguyên dạy đặt câu hỏi và truy vấn nó, tôi đã vô cùng hào hứng về bài học mới này. Ở thời điểm ấy, tôi cứ nghĩ rằng, tôi đang trở về Tiềm Thức mà vận dụng sức mạnh của Tiềm Thức nơi mình - khi bộ não con người được kết nối với tiềm thức sẽ mang lại hiệu quả hoạt động tuyệt vời không tưởng.

Nhưng qua những bài học thường ngày mà Bổn Nguyên dạy tôi, theo thời gian, tôi mới hiểu rằng tất cả những truy vấn nơi tôi về quá khứ nhân sinh đều được Bổn Nguyên trích xuất từ A LẠI DA THỨC – BỘ NHỚ VĨ ĐẠI của càn khôn vũ trụ, nơi lưu trữ toàn bộ mọi nhân quả được gieo của nhân sinh toàn vũ trụ - mà chỉ khi tâm thức đối thể nơi ta giải thoát hòa cùng TÂM THỨC BỔN NGUYÊN, thì mới dùng được nó mà phục vụ nhân sinh theo hạnh nguyện nơi mình.

Tiếp nối sự hào hứng của buổi hôm trước, trong buổi thiền hôm sau tôi đã hỏi Bổn Nguyên về tôi ở KIẾP TRƯỚC – một thắc mắc mà bất cứ kẻ tò mò nào cũng đều muốn tìm lời giải đáp: “BỔN NGUYÊN ƠI, XIN CHO CON BIẾT TIỀN KIẾP CỦA CON Ạ.”

Câu hỏi vừa dứt, tôi lại thấy đầu mình căng ra và cả người rùng lên hệt như một cỗ xe đang lăn bánh cho tôi đi ngược về quá khứ xăm. Tôi thấy mình cứ bay mãi, bay mãi vượt qua bao nhiêu mây khói mịt mù… (Mặc dù là thấy mình bay rất xa nhưng thực tế chỉ chưa đầy 1 phút đã tới - trong thế giới vô vi không có thân tướng, không có lực ma sát, ta có thể đi bất cứ đâu chỉ trong tích tắc.)

Tôi cứ bay mãi như vậy cho đến khi hết mây, cảnh vật bắt đầu hiện ra rõ hơn… tôi chợt giật mình nhận ra tôi đang ở trong làn nước xanh thẳm và dừng lại ở một nơi nào đó. Có lẽ là tôi đang ở dưới biển…

Rồi tôi nhìn thấy mờ mờ hình ảnh một cô gái đang vùng vẫy dưới nước, xung quanh là bọt khí nổi lên trắng xóa. Tôi thấy cô ấy đang bị nhốt trong một chiếc hộp kính gì đó và cả chiếc hộp bị nhấn chìm trong biển nước.

Trong một giây phút thoáng qua, tôi chợt giật mình, cảnh này sao quen quá vậy! Tôi đã thấy nó ở đâu đó rồi và nó rất quen! Cô ấy cứ vùng vẫy trong hoảng loạn tột cùng… Chứng kiến cảnh đó tôi đã bất giác chảy nước mắt, sao mà thương quá…

Tôi biết CÔ ẤY CHÍNH LÀ MÌNH trong quá khứ - và đang ở giờ phút cận kề cái chết. Và tôi chẳng thể giúp được gì ngoài việc niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Cô ấy càng vùng vẫy hoảng loạn bao nhiêu thì tôi càng niệm Phật và dành tình yêu thương cho cô ấy bấy nhiêu, không ai có thể cứu được cô ấy ngoài từ bi lực Bổn Nguyên.

Dần dần cô ấy không còn hoảng loạn, không còn vùng vẫy nữa, theo lời niệm Phật của tôi, cô ấy dần hóa thành khí trắng cuộn tròn trong chiếc hộp, rồi cái hộp VỠ TUNG và cô ấy bay ra khỏi mặt nước.

Rồi chẳng hiểu sao, tôi đã theo cô ấy mà bay cao, bay cao mãi, vượt lên một tầng tháp cao màu vàng có cái chóp nhọn dần chọc ra hẳn ngoài vũ trụ. Tôi thấy mình và cô ấy cùng nhau bay ra ngoài vũ trụ với những ngôi sao sáng rực rỡ. Và bất chợt 1 tia sét đánh vào khiến không gian chói lòa VỠ TUNG. Và tôi không còn nhìn thấy cô ấy nữa, chỉ còn mình tôi với vũ trụ bao la…

Rồi tôi quay trở về với tôi của thực tại đang ngồi thiền niệm Phật, tôi tiếp tục hỏi Bổn Nguyên rằng SỨ MỆNH NƠI TÔI TRONG CUỘC ĐỜI NÀY là gì.

Cỗ máy trong tôi lại tiếp tục rùng lên lăn chuyển, tôi lại thấy mình bay ra ngoài vũ trụ, lướt qua tôi là những đám mây đen và đám mây trắng. Tiếp đến, trán tôi bắt đầu chẻ ra và những ánh sáng như những ngôi sao chổi lại tự do chạy vào, rồi tất cả tan biến hết thành hư vô. Tôi đã không nhận được câu trả lời, có lẽ là do chưa đủ công đức để được biết, hoặc tôi chưa đủ trí tuệ để hiểu ý Bổn Nguyên hiển bày.

Tối hôm đó, sau khi xả thiền - dù đã hơn 12h đêm – nhưng tôi vẫn tức tốc nhắn tin cho Cô kể về bộ phim ly kỳ mà tôi mới được xem.

“Câu hỏi về Sứ Mệnh con chưa có đủ công đức để tuệ giác bổn thể soi tỏ mọi nghi vấn. Còn vừa nãy con đã GIẢI THOÁT cho một tâm thức bị nhốt trong biển nơi kiếp quá khứ của con quy về Bổn Nguyên đó vậy.”

“Nhưng mà cô ơi, con đã đầu thai nghĩa là giải thoát rồi mà, sao lại giải thoát nữa?”

“Mỗi lần con có mặt trên thế gian này, khi xác thân con chết là 1 PHẦN Ý THỨC của con vì BÁM VÍU vào nơi con chết mà bị MẮC KẸT lại và ở mãi nơi đó. Ở thời điểm con chết, tâm thức như chiếc máy ảnh sao chụp và lưu giữ vị trí con chết vào thức a lại da. Khi con truy vấn về nó, thức a lại da cho con đi ngược dòng thời gian mà truy ra nơi con chết, dẫn con tới nơi đó để gặp lại tâm thức bị mắc kẹt của chính con mà giải thoát cho nó.

Mỗi một kiếp làm người khi con chết đi, ý thức con sanh tạo ý niệm bám chấp vào một cảnh nào đó, hay bị kẹt trong ý niệm đó, sẽ tách ra hóa thành 1 thân gọi là Ý SANH THÂN, rồi thân đó cứ sống mãi nơi ý niệm ấy mà chẳng thể hiệp nhứt quy về Bổn Nguyên – gọi là TÂM THỨC BỊ MẮC KẸT. Đến kiếp làm người này con sống cùng tâm thức Bổn Nguyên mới rõ thấu mà giúp nó quy về bổn thể GIẢI THOÁT.

Khi con đầu thai là tâm thức con mang DÒNG NGHIỆP huân tập trong a lại da thức dẫn dắt con đi ĐẦU THAI, nhân chủng nào mạnh nhất sẽ thành lực lớn nhất dẫn dắt con theo nó vào cảnh giới ấy. Còn tâm thức mắc kẹt vẫn ở lại đó "

“Dạ, vậy là do kiếp này, tâm thức con HOÀ CÙNG BỔN NGUYÊN, nên con mới được quay lại vị trí con chết để giúp nó giải thoát đúng không Cô?”

“Đúng vậy, cho nên mới nói, chỉ có TỈNH GIÁC nơi tâm thức Bổn Nguyên mới độ cho chúng sanh nhiều đời nhiều kiếp đã trôi lăn lục đạo nơi tâm thức chính ta, và chỉ có giác thể nơi thấy biết ta mới ĐỘ TẬN CHÚNG SANH NƠI TA, chẳng ai có thể làm việc đó thay ta cả.”

“Vậy mà trước giờ con cứ nghĩ đầu thai thì đi hết toàn bộ luôn chứ.”

“Đi hết toàn bộ khi đối thể nơi ý thức HIỆP NHỨT quy về tâm thức Bổn Nguyên, cũng chính là khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đối cảnh tiếp vật, con TƯ DUY PHẢN TỈNH TỎ THẤU ý đối thể nơi thấy biết chính con mà hiệp nhứt nó triệt tiêu về không, chuyển hóa thành thấy biết chân thật Bổn Nguyên, KHÔNG SINH TẠO ra các cặp ý thức đối thể nữa.

Lúc ấy, con chính là Bổn Nguyên, Bổn Nguyên chính là con, nơi thấy biết luôn tỏ thấu ý chính nó quy sanh thị diệt mà thăng hoa thấy biết luôn mới trong từng sát na. Đời này, Bổn Nguyên sẽ chỉ cho con biết chúng hiệp nhứt ra sao.”

“Nếu tất cả hợp nhất lại thì có lợi gì hả cô?”

“Con sẽ có TRÍ TUỆ THẤY BIẾT CHÂN THẬT. Trí tuệ chân thật là ý nghĩa cả một kiếp làm người khó được, nó là quá trình thăng hoa tiến hóa tạo nên sự sống trường tồn mỗi người.”

“Ồ hay vậy. Khi tâm thức bị mắc kẹt được giải thoát, thì nó sẽ chuyển hóa thành trí tuệ cho con hả Cô? Con muốn hợp nhất hết các tâm thức bị mắc kẹt nhiều đời nhiều kiếp của con.”

“Để hợp nhất tất cả thì không có cách nào khác, ngoài việc con hòa cùng thành Bổn Nguyên. Con cứ NIỆM PHẬT BẰNG TÌNH YÊU THƯƠNG rồi Bổn Nguyên sẽ chỉ con dần dần.”

“Vâng con biết rồi, cảm ơn Cô nhiều nè!”

Khi ấy Cô cháu tôi đã trò chuyện đến 1h sáng, và suốt đêm hôm đó tôi chẳng thể ngủ được. Trong lòng tôi có quá nhiều cảm xúc khó tả sau bài học ngày hôm nay.

Tôi cảm thấy ý nghĩa việc GIẢI THOÁT cho những tâm thức bị mắc kẹt nơi cuộc sống chính mình. Nếu tôi không được gặp lại cô ấy, thì hẳn cô ấy cứ MÃI ĐAU ĐỚN vùng vẫy trong làn nước biển. Cho nên, chỉ có tỉnh giác mới có thể độ tận chúng sanh nhiều đời, nhiều kiếp đã chịu đựng khổ đau nơi ta, đang trôi lăn trong lục đạo luân hồi. Nếu tất cả các tâm thức bị mắc kẹt ấy mà hiện hình tướng nhìn bằng mắt thì hẳn sẽ đầy nghẹt cả hư không.

Tôi cũng hiểu ra bài học hôm nay Bổn Nguyên dạy cho tôi, về TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC HỢP NHẤT Ý THỨC VÀ TÂM THỨC ở kiếp làm người này. Để đến khi tôi chết đi, sẽ không còn ý thức bám chấp vào ý niệm mà sinh tạo ra những hóa thân đau đớn khổ sở kia nữa.

Và tôi cũng hiểu rằng, Tâm Thức Bổn Nguyên chính là ĐẤT, cuộc sống con người là những cái CÂY ý thức được gieo trồng trên mảnh đất ấy, còn HẠT GIỐNG là chủng tử thiện ác nơi thấy biết con người gieo vào tâm thức Bổn Nguyên và được thức a lại da lưu giữ lại.

Từ những hạt giống ta gieo sẽ mọc thành cây và phân nhánh gọi là ý thức, ý thức này kế thừa mà tiếp nối ý thức kia tạo thành chuỗi liên kết nhau, cũng như nhánh cây này mọc ra nhánh cây khác và phát triển mãi mãi. Và khi ta chết đi, nhân chủng tạo nên cây nào lớn nhất, mạnh nhất sẽ dẫn ta đi đầu thai vào cảnh giới tương ứng. Và sau đó ta lại tiếp tục gieo những hạt giống ý thức lên mảnh đất Tâm Thức Bổn Nguyên.

Tâm thức Bổn Nguyên là MẢNH ĐẤT KHỔNG LỒ chẳng có bờ mé nơi vũ trụ càn khôn, mà thấy biết nơi chính ta tạo nên các cặp ý thức đối thể là hạt giống gieo vào mảnh đất ấy, và thức a lại da là nơi lưu giữ hết toàn bộ những hạt giống mà tất cả chúng sinh đã gieo nhiều đời nhiều kiếp, từ đó vận hành luật nhân quả chính xác tuyệt đối trong từng sát na mà hình thành cuộc sống nhân sinh tương quan cùng cuộc sống muôn loài vạn vật.

Chỉ khi THẤU RÕ TÂM THỨC CHÍNH TA và trải qua quá trình hành trì TƯ DUY PHẢN TỈNH để các cặp ý thức nơi ta hòa vào tâm thức Bổn Nguyên, thì ta mới thực hiểu biết được sự vận hành của vũ trụ này, thực hiểu biết về luật nhân quả, thực hiểu biết về các pháp đang vận hành quanh ta... Từ đó ta mới thật sự AN NHIÊN, TỰ TẠI, BÌNH AN nơi cuộc sống chính ta.

11. TRẢI NGHIỆM THUẬT XUẤT HỒN - ĐỂ THẤU RÕ TẦM QUAN TRỌNG CỦA “HỢP NHẤT ĐỐI THỂ TÂM Ý THỨC QUY VỀ BỔN NGUYÊN ”

“Trời ơi Cô ơi!!! Con mới vừa XUẤT HỒN ra khỏi xác đó!!!”

“Con thấy sao kể Cô nghe.”

“Hồi sáng con mới đọc bài báo nói về ông kia ở bên Mỹ mà thiền xuất hồn về thăm người thân ở Việt Nam. Con thấy ngưỡng mộ quá trời! Ai ngờ tối nay Bổn Nguyên cho con xuất hồn thật luôn Cô ơi!”

Tôi đã rất hào hứng với phát hiện mới chấn động của mình!

“Con đang ngồi thiền niệm Phật bình thường, xong tự nhiên toàn thân con rơi vào trạng thái thư giãn hoàn toàn, rồi tự nhiên con mắt giữa trán con đóng lại tối thui, đầu con gục xuống và có cảm giác con rơi vào trạng thái ngủ gật.

Tự nhiên từ sống lưng con có năng lượng sáng thẳng đứng, rồi nó rút dần từ dưới lên trên đỉnh đầu. Xong con có cảm giác cái đầu con nó mở nắp ra và con bắt đầu CHUI RA NGOÀI luôn!

Nhưng mà thất vọng lắm Cô, sao cái hồn của con xấu dễ sợ. Nó là cục bèo nhèo, màu nâu nâu đỏ đỏ chứ không đẹp như con tưởng tượng. Không phải nhẹ như mây mà cũng không nặng như chất lỏng, nó nhũn nhèo mà không có hình hài gì hết. Tưởng tượng như quả bong bóng đổ nước vô xong cột lại rồi chọt chọt nó mềm èo vậy đó Cô!

Con chui ra ngoài rồi con đậu lên cái đùi của con đó!”

“Rồi sao nữa con.”

“Xong rồi sau đó con thử nuốt nước miếng xem thì con KHÔNG THỂ ĐIỀU KHIỂN được cơ thể con nữa, con cũng không thể nhấc tay con lên được nữa. Con chỉ còn kết nối với thân con bằng hơi thở như một sợi dây nối khí thôi!

Nhưng mà ngộ lắm nha Cô! Lúc con xuất ra thì con tưởng tượng người con có hai con mắt mở nhìn khắp phòng, con THẤY KHÔNG GIAN của phòng, thấy mấy đứa nhỏ nhà con đang ngủ luôn.

Nhưng sau đó con lại thấy con đang đứng ở MỘT CON ĐƯỜNG trong một không gian rộng lớn. Không có ánh sáng cũng không có bóng tối. Tất cả chỉ trong vắt không có mây hay gì hết, hoàn toàn TRỐNG RỖNG, chỉ có con đường và không gian tĩnh lặng. Lúc đó con không đi đâu hết mà chỉ đứng một chỗ.

Con cứ đứng ở giữa con đường miết như vậy. Sau đó tự nhiên con hỏi là con đang muốn đi đâu, đang chờ ai, đang đợi cái gì? Nhưng không có câu trả lời, con cảm thấy mình BƠ VƠ trong không gian rộng lớn đó…

Xong rồi ý thức con nói: “ĐI VỀ THÔI TÂM NHƯ”. Thế là cái cục bèo nhèo trên đùi con nó bay lên rồi dần chui vào đầu con lại. Năng lượng trả về lại dọc sống lưng. Đầu con lúc đầu hơi gục xuống thì nó nâng lên lại như lúc đầu, sau đó con tỉnh luôn.

Lúc đó con mới biết là mình đã ngồi hơn 1 tiếng mà không hề thấy tê chân gì hết, y như con mới ngủ đó Cô. Hay ghê luôn đó!”

“Đó không phải là hồn con, đó là ý thức đối thể. Nó xuất ra khỏi thân con bởi tâm ý nơi con đang thắc mắc về nó. Và con tò mò về những điều con đọc về thuật xuất hồn nên tánh thể vận hành để con biết BẢN CHẤT thuật đó là gì mà THẤU HIỂU CHÍNH MÌNH mà thôi.

Bản chất nó là Ý THỨC ĐỐI THỂ, mà con người gọi nó là linh hồn.”

“Vậy cái đó là ý thức đối thể của con, tức là nếu con chết đi, thì nó sẽ BỊ KẸT LẠI mà không đi đầu thai cùng con đúng không Cô?”

“Đúng vậy.”

“Mà Cô ơi con thấy thuật này lợi hại ghê nè, con thích đi đâu cũng được hay ghê luôn đó Cô. Đây là cách mấy thiền sư đi du lịch mà không tốn tiền theo lời đồn nè Cô. Hay quá!”

“Con đi đây đó không tốn tiền nhưng liệu nó có giúp được cho nhân sinh không? Hay nó chỉ phục vụ cho sự ham thích nơi con mà tăng trưởng bản ngã si mê. Có rất nhiều thiền sư đạt được cấp độ thiền thấy cảnh như con, rồi ham mê nó để rồi tăng trưởng bản ngã và bị mắc kẹt chẳng thể tiến xa hơn. Con nên nhớ xuất ra được nghĩa là ý thức đối thể còn chưa hiệp nhứt quy về tâm thức, thế sao gọi là GIẢI THOÁT.”

“Vâng, đúng là nó dễ làm mê hoặc lòng người thật, ngay cả con còn thấy mê nữa Cô à.”

“Mọi pháp tạo ra trên thế gian này là để ta học, từ đó nhận ra BỔN TÂM của chính ta. Người tỉnh giác sẽ dùng pháp để làm bài học trải nghiệm cho biết, rồi tư duy phản tỉnh xem pháp ấy dạy ta cái gì, mà biết giá trị đích thực nơi pháp ấy mang lại cho đời sống nơi ta, hòng thăng hoa tiến hóa thấy biết theo từng sát na như những gì Bổn Nguyên đang dạy cho con, còn người si mê thì sẽ ham mê, ưa thích, bấu víu vào nó để rồi tăng trưởng si mê nhân ngã, đi vào ma đạo.

Con biết không, nhiều vị thiền sư ngồi thiền nhập định xuất ý thức đối thể đi ra ngoài thân xác mà tưởng là linh hồn, đi mãi, đi mãi rồi tự nơi tâm ý nghĩ rằng sao ko có chỗ nghỉ chân, liền ngay nơi ý nghĩ ấy mà xuất hiện các cảnh theo tâm ý mình, rồi chui vào, liền vào chỗ tử cung súc sanh đầu thai mà chẳng biết.

“Dạ, vậy hả Cô. Mà khi con xuất ý thức ra, con có thể nhìn thấy cảnh xung quanh, thế có khác gì là một thân đâu cô nhỉ. Giống như khi con chết đi thì nó sẽ kẹt lại và tạo thành Ý SANH THÂN, nó sẽ là TÂM THỨC BỊ MẮC KẸT lại của con đúng không Cô?”

“Đúng rồi con, nó nhìn thấy mọi thứ, nhưng không ai thấy nó, nó nói không ai nghe, không ai giúp nó thoát khỏi nỗi khổ nó đang chịu đựng...”

“Chà thế thì tội quá! Mà đúng là khổ thật đó Cô, con muốn điều khiển thân con cũng không được nữa...”

“Muốn điều khiển thân, mà điểu khiển không được nên cảm thấy bất lực, tức tối.

Khi mất thân rồi, họ sống trong trạng thái cô đơn, lạc lõng, đau khổ vô cùng tận, nên muốn có thân.

Những tâm thức chết bất đắc kỳ tử mà mất thân, họ muốn có thân mà xô người ta ngã vì tưởng rằng người ta chết đi thì mình sẽ vô chiếm được thân người ta.”

“Nhưng thực ra lại chẳng chiếm được Cô nhỉ. Chà, sao mà tội nghiệp quá vậy...”

“Đúng vậy, họ bị SI MÊ làm theo tâm ý thức mình điều khiển mà lạc lối về, cũng là do tương tác nhân quả nơi họ và người.”

“Mà Cô ơi, lúc con thoát ra khỏi xác, con thấy mình BÈO NHÈO, MỎNG MANH lắm. Con thấy SỢ lỡ may con bị tan biến, hay có ai làm hại con, con cảm thấy lạnh lẽo lắm!”

“Phần tâm thức con bị bèo nhèo là bởi nó yếu nên hình dáng nó tạo là một hình thể bèo nhèo chẳng rõ ràng, nó cảm thấy mình mong manh và yếu đuối mà sợ hãi trước tất cả những gì nó gặp.

Cũng là để con hiểu được CẢM GIÁC của những tâm thức bị mắc kẹt, họ đều bị bủa vây bởi sự sợ hãi, lạnh lẽo, cô đơn. Con biết không, kiếp người chỉ trăm năm, nhưng kiếp sống nơi tâm ý thức bị mắc kẹt là vài trăm năm, cho đến nghìn năm và triệu năm, tùy theo ý niệm bám víu ấy là sâu hay cạn mà sự giải thoát nó cũng theo mức độ ấy kéo dài tương ưng thời gian sanh diệt chính nó.

Khi đủ duyên tâm ý thức mắc kẹt ấy diệt liền có người đến giúp.

Cho nên, người sống luôn nghĩ đến người chết mà làm tất cả các công đức từ việc trì kinh, niệm Phật, làm các việc thiện lành hướng về đến họ, họ sẽ nhận được ánh sáng mà lần lần giải thoát tâm thức si mê.

Tất cả đều đồng tương quan nơi nhân duyên quả giữa tâm ý thức người sống và người chết mà sự thọ nhận nơi tâm ý thức ấy diễn ra rất ăn khớp nhau trong từng sát na.

Và qua đây, Bổn Nguyên cũng cho con biết rằng, có được thân người là rất ĐÁNG QUÝ, con đang có cái đáng giá nhất mà bao nhiêu phần tâm linh bên ngoài, kể cả súc sanh không thể có được. Thân người chính là ngôi nhà để bao bọc, che chở, giữ ấm cho tâm thức ta, thân người còn là nơi để con trải nghiệm mà học hỏi những bài học nhân thế, mà thực biết giá trị các pháp nơi thế gian mang lại cho sự sống chính ta, để thấy biết nơi ta thăng hoa tiến hóa hòa cùng vũ trụ càn khôn mà sinh tồn bất diệt.

Vì vậy nói chấp hay không chấp vào thân xác chỉ là tâm ý thức "TƯỞNG TRI ĐIÊN ĐẢO" mà thôi.”

“Vâng, ý nghĩa quá Cô à. Khi sống thì cần biết QUÝ TRỌNG tấm thân mình đang có, còn khi chết đi rồi thì KHÔNG BÁM CHẤP vào nó nữa vì có muốn vào cũng chẳng được.”

“Quý trọng thân người này là con thường TINH TẤN TRAU DỒI ĐỨC HẠNH bằng sự RÕ THẤU tâm ý thức đối thể, để chúng luôn triệt tiêu về không mà sống cùng năng lượng Bổn Nguyên luôn hoàn thiện mọi khiếm khuyết mà giúp nhân làm người thăng hoa tiến hóa.

Còn khi con khởi niệm yêu quý thân người bằng việc bồi bổ cơ thể cho có sức khỏe hay tìm mọi cách cho nó tốt đẹp, hay khởi niệm không bám víu liền thành bám víu v.v...đều là muốn tốt mà thành xấu, muốn quý thân thành hại thân mà chẳng biết.
Giá trị đích thực là nhận ra hai mặt nơi ý thức chính ta mới là thực biết TRÂN QUÝ thân người khó được.

Và khi con sống đến chỗ thân tâm nhứt như nơi thấy biết luôn tiến hóa chẳng tạo những cặp đối thể ý thức bám víu, ấy là con hằng sống nơi cảnh giới thường giải thoát, là cảnh giới tối thượng nơi kiếp sống nhân gian đó con.”

“Dạ con hiểu rồi, con sẽ tinh tấn trau dồi đức hạnh bằng sự rõ thấu tâm ý thức đối thể.

À còn hình ảnh con thấy mình đứng ở con đường, trong một không gian trống rỗng, không ánh sáng, không bóng tối, không có mây… đó là gì vậy Cô?”

“Đó là con đang ở thế giới chỉ mình tâm thức con thấy biết, không ai biết đến nó cả. Nó là thế giới của bị thấy biết ngăn che giác thể, khiến con chỉ hướng cái thấy biết ra bên ngoài ý thức, mà sắc tướng là do ý thức tạo thành, nên con chẳng thể thấy sắc tướng nơi con ắt con chẳng thể thấy sắc tướng cảnh vật hiển bày nơi tâm ý thức người, cho đến mây, trời, đất v.v... đều là sắc tướng nơi đối thể âm dương hợp nhất tạo thành.

Cảnh giới không sắc tướng, không thời gian, không không gian ấy nằm nơi không tưởng thức nơi thấy biết con tạo ra nó, nó nằm giữa não phải và não trái, là cảnh giới thân trung ấm. Đó là cảnh giới cô độc đáng sợ nhất, trống rỗng đã là ý niệm biến ta đơn độc một mình nơi hầm sâu tâm ý thức vô minh ấy.”

“Dạ con chưa hiểu chỗ này lắm, Cô nói rõ hơn cho con hiểu nhen.”

“Ý thức đối thể nơi con BỊ NGĂN CHE ánh sáng tự tánh nên nó chẳng thể thấy được chính nó mà hòa cùng không gian bao la để thấy được tất cả muôn loại vạn vật nơi không gian ấy. Nó xuất ra từ bản thể và luôn hướng ra ngoài để nhìn thấy mà luôn bị một màn ngăn cách bởi bị thấy mà tạo nên thế giới cho riêng nó mà thôi.”

“Con hiểu rồi, THẾ GIỚI CÔ ĐỘC ấy được tạo ra từ ý thức đối thể nơi con, nên bị một lớp màn ngăn che ánh sáng mà không thể nhìn thấy được sắc tướng Cô hén.”

“Đúng vậy. Con đã hiểu hết ý nghĩa bài học hôm nay Bổn Nguyên dạy con chưa.”

“Dạ con hiểu rồi. Chỉ qua một đêm, trải nghiệm một pháp thôi mà Bổn Nguyên dạy con đủ thứ luôn! Bổn Nguyên dạy con:

THẤU HIỂU NỖI KHỔ đáng thương của tâm thức bị mắc kẹt: cô độc, sợ hãi, bất lực, si mê…

TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC HỢP NHẤT ý thức đối thể quy về tâm thức bổn nguyên để xóa tan mây mù ngăn che giác thể.

TINH TẤN TU HÀNH TRAU DỒI ĐỨC HẠNH BẰNG SỰ RÕ THẤU TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ.

BIẾT YÊU THƯƠNG, QUÝ TRỌNG THÂN NGƯỜI con đang có để hiểu được sống chết là thuận theo tự nhiên mà an bình tự tại nơi vào sanh ra tử.

CÁC PHÁP TRÊN THỂ GIAN ĐƯỢC TẠO RA LÀ ĐỂ CON NGƯỜI THẤU RÕ BỔN TÂM CHÍNH MÌNH, TỪ ĐÓ MÀ THĂNG HOA TIẾN HÓA, CHỨ KHÔNG PHẢI ĐỂ HAM MÊ NÓ MÀ ĐÁNH MẤT CHÍNH MÌNH.”

“Y vậy”

“Con cảm ơn Cô nhiều nhiều nè, chúc Cô ngủ ngon nha!”

12. TRẢI NGHIỆM BÀI HỌC: “MỖI CHÚNG TA LÀ MỘT VỊ PHẬT SẮP THÀNH” 

“Cô ơi!!! Hôm nay con lại mới được đi chiêm ngưỡng một KIỆT TÁC TUYỆT ĐẸP!!!” 

“Đi đâu thế con, kể Cô nghe.” 

“À, không phải là đi, mà là ở ngay trong người con!

Hôm nay giống như hôm qua, con lại rơi vào trạng thái ngủ gật, xong con thấy thân con nó chẻ ra từ từ, y như đang bóc vỏ chuối đó! Nhưng mỗi lần bóc ra, là nhìn giống như một cánh hoa nở, nó búp búp giống như hoa ly đó Cô. Nó bóc lần lượt rồi bóc hết. Rồi con thấy ở giữa là một cái lõi đẹp dã man luôn! Con không biết phải miêu tả làm sao hết! Cảnh tượng kỳ vĩ, oai nghiêm mà con chưa từng thấy trong bất kỳ phim nào! Những gì con thấy là bộ phim độc nhất vô nhị đó Cô ơi!

Con thấy cái lõi bên trong là dáng một người ngồi được bao bọc xung quanh là đá pha lê hay kim cương trong suốt, lấp lánh ánh sáng. Khung cảnh bên ngoài là bóng đêm nhưng nó phát ra ánh sáng tỏa ra không gian! Khí di chuyển xung quanh cái khung pha lê ấy hệt như mây hay như máy phun sương phà khói ra vậy đó Cô.

Con được tiến đến sát cái khung pha lê, rồi đi vào bên trong, tiến sát đến gần chỗ người ngồi. Trời ơi nó to sao mà to! Mà nơi đó tỏa ra ánh sáng và năng lượng dịu dàng, thanh mát giống hệt như khi người Phụ Nữ Tóc Trắng đến ngồi cạnh con hồi trước đó Cô! Lúc đó con đã hiểu ra cô ấy là ai rồi! Là chính con mà bây lâu nay con lại cất công đi tìm cô ấy!

Rồi con bay lại cận cảnh cái đế mà người đó đang ngồi lên, con thấy rõ mồn một đó là một đài sen bằng vàng ròng! Có rất nhiều cánh hoa sen tròn nhỏ xếp lớp sát nhau như những vảy cá! Con thấy bằng vàng nguyên khối còn phát sáng hơn cả vàng thỏi trong thế giới vật chất!

Con đi mãi mới hết một vòng quanh cái đế đó rồi tiến lên trên, phía trên thấp thoáng dáng người ngồi bằng vàng, nhưng khí xung quanh phủ lên nhiều quá con nhìn không thấy rõ lắm, và cũng không tiến sát lại gần xem được. Chỉ thấy thấp thoáng đó là hình một người ngồi màu vàng. Khí xung quanh cứ chạy vòng vòng, rồi cuộn lại như hình những con rồng trắng và cứ cuốn quanh người đó!
Cảnh đẹp và ma mị lắm lận nha Cô! Hồi giờ con chưa bao giờ thấy cảnh nào hùng vĩ đến vậy, và cũng chưa từng thấy bức tượng nào lớn đến vậy!

Hôm qua con xuất ý thức đối thể ra, nó là một cục bèo nhèo màu nâu đỏ, nhưng lần này con lại thấy trong người con có một hình ảnh màu vàng quá đẹp! Mà con vẫn điều khiển được tay con, và con vẫn nuốt nước miếng được nhé. Cảm giác khác hôm qua lắm!”

“Đó là linh giác một vị Phật sắp thành nơi bổn thể con. Cho nên Phật Thích Ca mới nói: "Chúng sanh là Phật sắp thành, còn ta là Phật đã thành " là vậy.

Thấy biết nơi con luôn tỏ thấu đối thể chính nó hiệp nhứt quy bổn thị diệt thăng hoa chuyển hóa trong từng sát na mà hoàn thiện nhân làm người toàn chơn, toàn bích, chính là hoàn thiện một vị Phật nơi bổn tâm con trong từng sát na.”

“ỦA, SAO LẠ VẬY CÔ? Người bình thường mà cũng thành Phật được hả Cô? Giờ con mới biết! Con cứ tưởng Phật là những vị ngự ở trên cao để mọi người tôn kính và cầu nguyện thôi chứ.”

“Phật là cảnh giới HOÀN THIỆN THẤY BIẾT nơi thân làm người, và chỉ có muôn pháp nơi thế gian mới giúp thân người VIÊN MÃN HẠNH NGUYỆN thập độ mà phát triển hoàn thiện trí não, tạo nên hình hài một vị Phật toàn chơn, toàn bích.

Con người cung kính Phật chính là CUNG KÍNH TUỆ GIÁC tạo nên nhân hoàn thiện làm người toàn chơn toàn bích, mà nói làm tất cả mọi việc chỉ một mục đích duy nhất là hướng đến TUỆ GIÁC VÔ THƯỢNG nơi Phật mà tầm cầu.

Con người hằng sống bằng sự TỈNH GIÁC RÕ THẤU MUÔN PHÁP nơi thấy biết chính mình, ấy là con người đang thành tựu một vị Phật nơi chính mình.

Còn Chúa là hiển bày TÌNH YÊU THƯƠNG nhân loại, hiển bày đức tin sâu NHÂN QUẢ chính mình mà phụng sự nhân sinh để con người trải nghiệm muôn pháp mà học hỏi hòng nhận ra giá trị đích thực sự sống nơi con người và muôn loài vạn vật tại nhân gian.

Con người hằng sống bằng TÌNH YÊU THƯƠNG mà PHỤNG SỰ nhân loại, luôn thấu hiểu cho sự không biết nơi con người tạo ra mà bình an, ấy là ta đang hoàn thiện vị Chúa nơi con người chính ta.”

“Con hiểu rồi, thế mà hồi giờ con cứ nghĩ Phật hay Chúa thật xa vời, không ngờ lại gần ngay trước mắt. Phật hay Chúa đều là Ở NƠI THÂN TÂM CHÍNH MÌNH, và mình cũng có thể thành Phật, thành Chúa được Cô hén.”

“Đúng rồi, chúng sanh sống bằng TÂM TỈNH GIÁC, TÂM YÊU THƯƠNG như chư Phật, như Chúa ắt thành Phật, thành Chúa là tất nhiên. Y như đệ tử Phật mới được làm Phật. Y như con Chúa mới được làm Chúa.”

“Dạ con hiểu rồi. Mà Cô ơi, LINH GIÁC là gì và BỔN THỂ là gì hả Cô?”

“Linh giác là tánh linh tự thấy biết tạo nên thấy biết sanh tạo muôn pháp hình thành vũ trụ càn khôn. Bổn thể là bản chất thấy biết tạo nên tính chất nơi muôn pháp.”

“Vậy là Bổn Nguyên cho con diện kiến linh giác nơi con, có phải là để cho con biết rằng, con cần hợp nhất ý thức đối thể quy về linh giác mà hoàn thiện nhân toàn chơn toàn bích vị Phật nơi con phải không Cô?”

“Y vậy. Đời này con cần hợp nhất ý thức đối thể quy về linh giác để hoàn thiện vị Phật nơi chính con.”

“Mà Cô ơi, sao cái hình người ngồi của con lại được bọc bằng pha lê, và có khí phủ lên xung quanh hả Cô?”

Bọc đó là bổn tâm luôn vì nhân sinh đau khổ mà hành các hạnh nguyện chỉ để tỏ thấu đạo vô thượng, do bổn tâm chân thật trong suốt mà tạo thành pha lê, do tuệ giác sắc bén có thể chặt đứt tận cùng gốc rễ vô minh, làm tan hoại tâm ý thức si mê nhân ngã đã huân tập nhiều đời thành tập khí cang cường, đanh thép như kim loại mà tạo nên kim thân bất hoại – hình thành từ tuệ giác sắc bén như kim cương, ngời ánh sáng như vàng, bao phủ hạnh nguyện tạo thành khí phủ quanh, luôn bảo vệ vị Phật sắp thành nơi bổn thể con.
Cũng là để giúp con luôn tiến thẳng đúng đường không bị lệch hướng.”

“Vậy ạ, à mà Cô nói con mới nhớ, là xưa giờ có rất nhiều người rủ con vào các đạo, nhà con cũng được cho rất nhiều sách về đạo nhưng mà con bận quá nên không tham gia, với không đọc luôn.”

“Cũng bởi vì đời này con được bảo hộ để không tham gia, không đọc như thế, nên con mới tiếp nhận được những điều Bổn Nguyên dạy con, mà thấu tỏ mọi sự vật hiện tượng nơi thân tâm con, mới là thực thấy biết.”

“Mà Cô ơi, con buồn lắm, con kể với người trong nhà con, ai cũng nói con bị hoang tưởng. Rồi mọi người nói là con tu mới có 30 ngày mà cứ làm như tu 30 năm, rồi nói con không biết gì về Phật Pháp, không bao giờ đi chùa, tên của các vị Phật còn không biết… thế mà bày đặt nói về Phật.”

“Chính bởi vì con không biết gì về Phật Pháp, chưa bao giờ đọc kinh sách viết về Phật, nên con giống như một tờ giấy trắng, để rồi những thấy biết Bổn Nguyên khi con tận mắt thấy được viết lên. Có sao viết vậy, ấy là thấy biết chân thật. Cũng bởi vậy mà Cô không cho con đọc tài liệu trên mạng, vì đó là thấy biết của người ta chứ không phải là của chính con.

Chính những người đọc nhiều, biết nhiều mới là người tích lũy cái hiểu biết tri kiến chẳng thật biết và xem đó là khuôn vàng thước ngọc mà ôm ấp, để chẳng thể tỏ thấu bổn thể mà thật biết tâm ý thức đối thể nơi chính mình, hòng giúp nó hiệp nhứt quy bổn. Vậy làm sao có thể sống cùng thấy biết chân thật Bổn Nguyên mà trải nghiệm nhiều điều kỳ diệu như con?

Người ta tu 30 năm cũng không bằng con tu 30 ngày là bởi con là một tờ giấy trắng, con thăng hoa tiến hóa bằng thấy biết chân thật nơi chính con. Con nên nhớ, con đã tu từ rất nhiều kiếp bằng hạnh nguyện phụng sự mà kết duyên với nhân sinh nơi thế gian, đến nay đã đủ duyên để trổ quả theo sự vận hành tự nhiên mà thôi.”

“Vậy chung quy là do con không biết gì, và con đã tu từ nhiều kiếp trước nên mới đi nhanh vậy Cô hén!”

“Y vậy, không biết mới là thực biết. Vì không biết nên con mới không chấp vào cái đã biết để nghe lời Cô mà hành pháp. Con nên nhớ mỗi người tùy vào công đức tu hành tích lũy từ nhiều kiếp trước mà kiếp này sẽ có những thấy biết khác nhau. Mỗi người học những bài học khác nhau không ai giống ai.”

“Dạ con hiểu rồi. Mà con thấy hay thật chớ, mỗi ngày là Bổn Nguyên dạy cho con một bài mới mà con chẳng hề biết trước! Nhưng mà con biết một phần con đi nhanh vậy là nhờ Cô trợ lực cho con nữa, có điều Cô không nói ra thôi nhen.”

“Con biết không, tất cả những gì con trải nghiệm đều là tánh thể tự thấy biết Bổn Nguyên dạy cho con. Tất cả những điều cuộc sống này tác động vào con đều cho con bài học. Rồi khi con thiền con tự thấy các Pháp vận hành, đó là con thực thấy, nhưng con không hiểu ý nghĩa nó là gì thì Cô mới hướng dẫn giải thích cho con hiểu.”

“Túm lại, nhờ có Cô đến giúp thì con mới bắt đầu hành trình về với Bổn Nguyên mà không bị lạc đường. Người đi trước dắt người đi sau để cùng nhau thăng hoa, bắt kịp sự tiến hóa của vũ trụ Cô hén!”

Cô chỉ cười cười mà chẳng nói gì…

“À mà Cô, con còn có thắc mắc này nữa. Con nghe người ta nói rằng người tu ở chùa mới là thực tu, mới là tu thành chánh quả. Còn ở đời thân người nhơ nhớp, cơm áo gạo tiền, quan hệ thân xác, ăn mặn không ăn chay… ô trược hết rồi thì sao mà gọi là thanh tịnh được hả Cô?”

“Này con, mang thân con người thì dù tu ở chùa hay tu tại tại gia đều chẳng thể thay đổi tính chất nơi thân nó.

Thấy thân nhơ nhớp, ô trược, quan hệ thân xác, lo lắng cơm áo gạo tiền chẳng thể tu được. Bởi con người chẳng biết rằng, thân thể này được vận hành bởi cái thấy biết chính ta. Nó ố trược, nhơ nhớp, hay sạch sẽ, tinh khiết cũng đều nằm nơi tâm ý thức con người sanh tạo.

Và chính tâm ý thức ấy mới dẫn dắt con người trói buộc theo nó trôi lăn sanh tử kiếp kiếp.
Mà tu hành là vì nhân sinh đau khổ mà hành các hạnh nguyện ngay nơi đời sống, để phát triển tuệ giác thấu tỏ gốc rễ tạo nên tâm ý thức đối thể ấy, hiệp nhứt nó quy bổn mà sống cùng thấy biết chân thật bổn lai, chính là thoát khỏi sự trói buộc nơi nó mà bình an tự tại vào sanh ra tử nơi nhân gian.

Ấy là cảnh giới giải thoát tối thượng nơi kiếp làm người tại nhân gian.

Người tu ở chùa họ có sự trải nghiệm nơi thấy biết chính họ mà nhận được giá trị đích thực các pháp ấy nơi cuộc sống chính họ, và sự trải nghiệm nơi người tu ở chùa là sự trải nghiệm các pháp lấy bỏ, bỏ đời mà tầm đạo, nên thấy biết ấy thiên về một bên, chưa thể thấu triệt muôn pháp nơi thấy biết thông tỏ hai bên mà hợp nhứt đời đạo nhứt như, là thấy biết minh tường tỏ đời thông đạo, thấu triệt tận cùng gốc rễ vô minh mà khai phóng nó quy bổn, giải thoát khổ đau cho muôn loài chúng sanh nơi vòng quay nhân duyên giữa ta và người.”

“Trời ơi! Con hiểu hết rồi!!! Hôm nay Bổn Nguyên cho con sáng tỏ nhiều nghi vấn bữa giờ của con quá! Giờ đây con HOÀN TOÀN VỮNG TIN con đường tu tập nơi chính con! Hôm nay con được diện kiến vị Phật nơi con, thấy được cảnh đẹp hoàn mỹ mà trước nay chưa từng thấy trong phim ảnh. Đúng là mỗi ngày con được học những bài học mới, hay quá Cô ơi!!”

“Y vậy, nét đẹp tâm hồn là một nét đẹp hoàn mỹ không gì sánh được. Con là sướng nhất trên đời đó! Khi mỗi ngày đều được Bổn Nguyên dạy cho cái mới chưa từng biết đến! Chỉ khi ý thức con hiệp nhứt quy về Bổn Nguyên thì mới được sướng như vậy nghen con.”

“Dạ con hiểu rồi, con sẽ tinh tấn tu hành, chăm chỉ niệm Phật bằng tình yêu thương để luôn hòa cùng Bổn Nguyên. Cảm ơn Cô nhiều nhiều nè.”


13. THẤU TỎ TÂM YÊU THƯƠNG CHÚNG SINH NƠI CHÚ ĐẠI BI

Vào một buổi trưa đẹp trời, nhân duyên đưa đến tai tôi một bản nhạc tiếng Phạn, rồi chẳng hiểu lý do vì sao tôi cảm thấy xúc động mà hai hàng nước mắt tuôn rơi, mặc dù chẳng hiểu nghĩa lời bài hát là gì... Hóa ra đó là CHÚ ĐẠI BI.

Sự tò mò trong tôi lại trỗi dậy, tôi nhắn tin hỏi Cô về KINH VÀ CHÚ, kinh và chú sinh ra để làm gì?

“Bởi con người bị thấy biết đối thể dẫn dắt chẳng thể tỏ thấu tâm ý thức chính mình. Nên kinh, chú có mặt để con người đọc nó, thể nhập cùng lời kinh mà NGHE THẤU tiếng lòng nơi tâm ý thức chính ta, mà TƯ DUY PHẢN TỈNH hòng thực biết lời kinh điển dạy ta bài học gì mà GIẢI THOÁT các tâm ý thức đối thể nơi thấy biết chính ta.

KINH là thấy biết Bổn Nguyên, là chân lý vận hành tâm ý thức chính con hình thành muôn pháp tạo ra sự sống chính con.

CHÚ là bổn tâm ngôn ngữ đà la ni như ý chính nó, thể hiện bổn hạnh nguyện chư Phật, chư Bồ tát, để khi chúng ta trì tụng sẽ nương sức hạnh nguyện nơi chú mà soi tỏ lầm mê, soi tỏ bản chất điên đảo tưởng tri nơi tâm ý thức mà tỏ thấu muôn pháp nơi thấy biết chính ta.”

“Vậy là mình đọc kinh và chú là để tự suy ngẫm mà THẤY BIẾT CHÍNH MÌNH đúng không Cô?”

“Đúng vậy, đọc kinh và chú để mình và kinh chú nhứt như. Kinh và chú là chân ngữ bổn thể luôn soi tỏ ý con, để con thực biết đối thể tâm ý thức nơi thấy biết chính con mà thực biết muôn pháp đồng hiện hữu xoay vần tạo nên cuộc sống chính con.”

“Dạ. Vậy con cũng không nên tìm hiểu ý nghĩa ở trên mạng phải không Cô?”

“Ý nghĩa kinh mà con xem trên mạng đều là sự hiểu biết nơi người, con đem làm hiểu biết nơi con là không thật biết. Con hành trì kinh là để con và kinh là một, và kinh là bổn thể soi sáng ý nghĩ nơi con, để con tỏ biết tâm ý thức chính con mà tư duy phản tỉnh hòng thật biết chân ý nơi kinh, thật biết bản chất muôn pháp nơi thấy biết con, ấy mới là thật biết.

Kinh chỉ là hiển bày hạnh nguyện chư Phật, chư Bồ tát. Lời kinh để người nhiếp phục mà tỏ ý chính ta như thiền đó con.”

“Dạ con hiểu rồi. Còn nữa, nãy con cũng có lỡ xem trên mạng thấy người ta nói về công dụng CHÚ ĐẠI BI, nhiều công dụng hay lắm đó Cô.”

“Con chạy theo công dụng mà hành trì Chú Đại Bi chính là con chạy theo tâm tham muốn mà trì chú, ắt chỉ làm tăng trưởng tâm si mê nhân ngã nơi con mà hại con, hại chúng sanh nơi tâm ý thức chính con.

ĐẠI BI LÀ BỔN TÂM ĐẠI TỪ BI yêu thương nhân sinh vô điều kiện, là tâm bao la rộng lớn dung chứa tất cả tâm thức si mê, sân hận, kiêu mạn… của chúng sinh, hệt như biển lớn mênh mông dung chứa tất cả các dòng chảy ao hồ, sông ngòi, cống rãnh quy tụ về biển.

Con trì Chú Đại Bi là hòa vào bổn thể từ bi của chư Phật, Bồ Tát mà phát triển tâm đại từ bi nơi con.

Chú Đại Bi là Bổn thể đại bi nơi bổn tâm, con chỉ trì chú với một tâm duy nhất là YÊU THƯƠNG CHÚNG SANH.”

“Dạ đúng là thật khó để giữ tâm thanh tịnh, cùng là một hành động trì chú mà nó có thể biến đổi từ thanh tịnh thành si mê. Con hiểu rồi, con sẽ chỉ niệm chú bằng một cái tâm duy nhất là YÊU THƯƠNG CHÚNG SINH.”

“Bởi bản chất tâm thức con người là luôn bị thấy biết dẫn dắt mà phát triển tâm thức si mê nhân ngã, điên đảo tưởng tri. Cho nên con nhớ thường xuyên phản tỉnh mọi việc con làm nhằm vì mục đích gì mà thấu tỏ tâm ý thức chính con.”

“Thực ra con muốn niệm Chú Đại Bi vì nãy con đọc trên mạng thấy người ta nói khi đọc chú sẽ giúp đỡ được nhiều người, cả người âm xung quanh mình nữa nên con muốn niệm để giúp họ.”

“Đó là cái bẫy ru người dễ khiến ta sa hầm sụp hố, khi mà khởi niệm “muốn” là bị thấy biết si mê nhân ngã dẫn dắt làm mục đích trì Chú Đại Bi. Rồi con sẽ bị cái muốn cứu người ấy trói buộc con mà tăng trưởng bản ngã si mê, đưa con lạc vào tà đạo.

Con chỉ hành trì Chú Đại Bi với TÂM YÊU THƯƠNG thôi. Mọi việc tánh thể tự vận hành tình yêu thương ấy, mới chuyển hóa được tâm thức đau khổ, uế trược nơi chúng sanh trở về thanh tịnh.”

“Trời ơi, sao mà dễ lầm đường quá vậy! May mà con hỏi Cô trước chứ không lại đi lạc nữa rồi!

Từ giờ con sẽ học thuộc lòng và hành trì chú bằng duy nhất TÂM YÊU THƯƠNG thôi. Cảm ơn Cô nè!”


Sau đó tôi đã dành thời gian học thuộc lòng Chú Đại Bi bằng tiếng Phạn thật chăm chỉ.

Và tôi đã hiểu được ý nghĩa của chú khi tận mắt thấy SỰ VẬN HÀNH và SỨC MẠNH VÔ BIÊN của Chú Đại Bi ngay trong buổi thiền của mình…

Khi tôi niệm Chú Đại Bi LẦN THỨ NHẤT, cả người tôi lắc lư, trong người tôi phát ra những ánh sáng mềm mại như những cây rong đang lắc lư theo nhịp của chú, hệt như các vũ công đang múa theo điệu nhạc. Có lẽ thông qua chú, các chúng sinh trong người tôi đang cảm nhận được tình yêu thương nơi tôi và đang sung sướng nhảy múa. Tôi cảm thấy hạnh phúc…

Niệm LẦN THỨ HAI, tôi thấy lòng mình bao la như vũ trụ với đầy những vì sao, có cả sao băng và sao chổi. Chú đã cho tôi thấy yêu thương nơi tôi trở nên rộng lớn và bao trùm khắp cả vũ trụ càn khôn…

Khi tôi niệm LẦN THỨ BA, tôi nhìn thấy ánh sáng bổn thể chính tôi trong cái vũ trụ bao la đó, ánh sáng chứa đầy tình thương ngày càng lớn dần theo từng câu niệm. Hệt như lời Cô từng nói, đại bi là bổn tâm ĐẠI TỪ BI yêu thương nhân sinh vô điều kiện, tâm ấy bao la rộng lớn như biển cả mênh mông, và tôi đang được nhìn thấy được sự bao la ấy…

LẦN THỨ TƯ, từng câu niệm nơi tôi như đang gõ chuông, từ ánh sáng bổn thể chính tôi vang ra những vòng tròn ánh sáng quét hết cả vũ trụ bao la thành từng đợt như những cơn sóng. Cảm giác như đang truyền tải những sóng yêu thương vô bờ bến từ tôi tới tất cả những chúng sinh trong vũ trụ vậy. Và không hiểu vì sao, tôi cứ xúc động mà chảy nước mắt mãi…

LẦN THỨ NĂM, tôi vẫn liên tục phát ra ánh sáng năng lượng như vậy. Rồi ánh sáng bổn thể trong người tôi lan tỏa từ dưới lên trên và ra trước trán. Ánh sáng to dần trước mắt tôi, càng ngày càng lớn, còn có cả hào quang nữa. Tôi còn nhìn thấy thấp thoáng có hình Phật ngồi trên đài sen được tạo thành từ ánh sáng vàng tuyệt đẹp mà tôi đã từng thấy ngày trước…

Đến khúc đó thì đứa nhỏ nhà tôi cất tiếng khóc, tôi lập tức xả thiền để dỗ con ngủ lại.

Liền sau đó tôi đã kể Cô nghe những ĐIỀU KỲ DIỆU mà tôi mới nhìn thấy, không quên thêm vài câu cảm thán như muốn hét lên: “TRỜI ƠI! Con thấy THẦN LỰC ĐẠI BI VĨ ĐẠI lắm Cô ơi! Không ngờ con lại được thấy vậy!!”

“Con niệm Chú Đại Bi là để con hòa nhập bổn thể mà tăng trưởng tình yêu thương chúng sanh, tình yêu thương ấy rộng lớn như biển cả bao la sẽ dung chứa được hết tất cả những nỗi khổ chúng sanh mà làm cho chúng sanh hết khổ y như ý nghĩa của chú.

Bởi sức mạnh như vậy nên mới gọi là thần lực, và sẽ khiến con người si mê vào thần lực mà đánh mất đi chính mình.”

“Đúng là thần lực luôn đó Cô! Con thấy khi con niệm chú, năng lượng yêu thương nơi con tỏa ra khắp cả vũ trụ!”

“Chú Đại Bi là tên của 84 vị Phật kết hợp lại, mỗi vị có một hạnh nguyện riêng mà tạo ra thần lực, nên con thấy được sức mạnh vô biên nơi đồng lực đó vậy.

Nhưng con hãy nhớ, ĐỪNG QUAN TÂM đến thần lực ấy, mà chỉ niệm Chú Đại Bi bằng tâm yêu thương chúng sanh để chúng sanh thẩm thấu tình yêu thương nơi bổn thể là đủ. Chỉ có Thanh Tịnh Lực nơi tánh thể A Di Đà Phật mới GIẢI THOÁT tận gốc rễ si mê nhân ngã.”

“Vâng con hiểu rồi, con sẽ không chú ý đến thần lực của chú nữa. Khi thiền con sẽ niệm Chú Đại Bi lúc đầu, để tăng trưởng tình yêu thương chúng sanh nơi con, sau đó con sẽ chuyên tâm niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Nhưng mà ngoài ra con niệm Chú Đại Bi lúc nào nữa hả Cô?”

“Con niệm khi thấy nhân sinh đang đau khổ, bệnh tật, đang bị ngọn lửa sân hận, tham si đốt cháy v.v...”

“Vâng con hiểu rồi, con cảm giác là con mới được khoác lên mình một tấm áo mới hơi bị đẹp nè Cô. Bài học về Chú Đại Bi này hay quá Cô ơi! Con cảm nhận được tình yêu thương vô bờ bến của Phật và Bồ Tát tới tất cả chúng sinh, bao trùm khắp vũ trụ càn khôn, tác động tới chúng sinh như những con sóng yêu thương dạt dào.

Con sẽ chăm chỉ niệm Chú bằng TÌNH YÊU THƯƠNG CHÚNG SINH. Cảm ơn Cô nhiều, chúc Cô ngủ ngon nha!”

“Chúc con ngủ ngon.”

14. CHỮA BỆNH GIÚP NGƯỜI VÀ LẠC VÀO MA TÂM

Sau một thời gian hành trì Chú Đại Bi, nương nhờ công lực Chú Đại Bi cái tâm yêu thương chúng sinh nơi tôi cũng dần trở nên rộng lớn, và dần dần, tôi bắt đầu phát huy khả năng chữa bệnh cho người khác. Tôi chữa bởi đơn giản là tôi MUỐN giúp họ hết bệnh.

Khi đặt tay lên người bệnh và niệm Phật bằng tâm yêu thương, tôi thấy khí đen từ người họ truyền sang mình, và tôi nhìn thấy theo từng câu niệm, những tia sét, sao băng, sao chổi trên trời hợp nhất lại thành cột ánh sáng lớn truyền vào người họ để nạp năng lượng thông qua tay tôi.

Tôi hiểu bản chất của việc chữa bệnh này là thông qua thân tôi y như một sợi dây dẫn mà lấy năng lượng xấu nơi họ và bù đắp Năng Lượng Thanh Tịnh Bổn Nguyên vào thân họ.

Khi đã thành thạo, tôi không cần đặt tay nữa mà tự ánh sáng bổn thể bắc cầu yêu thương từ ngực tôi qua người bệnh và tự gọi những vì sao xuống nạp năng lượng, và tất nhiên tôi lại thu trược khí của họ vào người mình nên thường xuyên thở Chiếu Minh để chuyển khí trược về thanh.

Nâng cao hơn một chút nữa, tôi bắt đầu chữa bệnh không còn bị giới hạn bởi không gian, năng lượng bổn thể chính tôi xuất ra từ ngực rồi đi mất tích về phía họ để chữa bệnh, cho dù người đó có đang ở nước ngoài, chữa xong thì nó quay về nhập lại vào người tôi.

Thời điểm ấy vì chưa đủ công đức nên tôi không nhìn thấy được bổn thể chữa bệnh như thế nào, nhưng tôi hiểu xa hay gần thì bản chất cũng giống nhau, và triệu chứng các căn bệnh đều được giảm dần theo thời gian.

Vì nhìn thấy mình có thể gọi cả sét và sao trời xuống để chữa bệnh, thấy người ta cảm ơn mình, thấy người ta xem mình là quan trọng, cảm giác mình là người cứu giúp họ… nên theo thời gian, TÂM MA bắt đầu nhen nhóm từ lúc nào mà tôi không hề nhận ra.

Đỉnh điểm của TÂM MA ấy là sự đắc ý khi tôi nghe chị dâu kể rằng đứa con hơn 1 tuổi của chị cả đêm reo vui phấn khích gọi tên tôi trong giấc mộng, khi mà đêm ấy bổn thể tôi xuất đi chữa bệnh cảm cho cháu. Tôi đã rất tự hào, đắc ý, và bay lên mây khi nghe kể về mình như vậy…

Tôi cứ ở trong giấc mộng đẹp như thế trong một thời gian, cho đến một ngày, một câu nói ngây thơ của con gái đã tát cho tôi tỉnh giấc.

Đêm hôm ấy, trời gió to và lạnh, vợ chồng tôi chuẩn bị chở các con đi thăm ngoại. Khi chồng tôi nói con bé con mặc áo khoác, bịt mặt vào để tránh gió, thì nó đã hồn nhiên nói thật to với bố:

“Ủa, cần gì phải mặc! CON BỆNH THÌ ĐÃ CÓ MẸ CHỮA, CÓ GÌ ĐÂU!”

Lời nói vô tư ấy của con như một TIẾNG SÉT ĐÁNH NGANG TAI, có cái gì đó mới đập vào đầu tôi. Có cái gì đó sai sai…

Cả đêm hôm ấy tôi cảm thấy rất rất buồn và cứ nghĩ vẩn vơ. Đến khuya ngồi thiền, tôi đã tự vấn lại cái sai của mình. Trời ơi… lòi ra biết bao nhiêu vấn đề, lòi ra cái TÂM MA bấy lâu nay đang ẩn náu trong chính tôi!

TÔI ĐÃ BIẾN NGƯỜI KHÁC TRỞ NÊN Ỷ LẠI, PHỤ THUỘC VÀO TÔI, mà không chịu rèn luyện để gia tăng nội lực chính mình. Khi có bệnh họ không tự phản tỉnh chính mình mà lại trông chờ vào tôi.

TÂM MA nơi tôi hình thành vì tôi luôn cảm thấy TỰ HÀO về cái mà tôi cho rằng đó là pháp thuật cao siêu do tôi tạo ra, mà quên mất rằng đây là Năng Lượng Bổn Nguyên, và tôi chỉ là dây dẫn tiếp nối tôi và người.

TÂM MA nơi tôi xảo quyệt đến mức khiến tôi háo hức khi có người bệnh để được ra tay giúp đỡ. Vậy mà bấy lâu nay tôi không nhận diện ra nó chứ?

TÂM MA đang điều khiển cảm xúc chính tôi. Khi người ta khen mình, người ta cần mình thì thấy vui, thấy hạnh phúc – khi người ta không tin hay nghi ngờ khả năng của mình thì cảm thấy buồn và khó chịu.

Trời ơi! Sao tôi lại thành ra thế này, sao bấy lâu nay tâm tôi lại trái ngược hoàn toàn với mong muốn chữa bệnh giúp người ban đầu nơi tôi vậy?

Chỉ nhờ một câu nói của con tôi mà giúp tôi phản tỉnh chính mình, chỉ trong một buổi thiền mà tôi đã THỨC TỈNH và NHẬN DIỆN ra tất cả TÂM MA ẩn nấp nơi thân tâm tôi. Thật là sai quá sai!

Tôi lập tức đem chuyện đó ra kể với Cô bằng một tâm trạng thất vọng tràn trề, nhưng trái ngược hoàn toàn với tôi, Cô lại tỏ ra rất bình thản:

“Cô đã từng nói con, chỉ cần khởi một niệm MUỐN, thì thanh tịnh sẽ biến thành si mê.

Đây chẳng qua là bài học để con trải nghiệm những điều cô đã nói, từ đó nhận diện chính mình mà thôi. Bởi con đã tu nhiều đời nhiều kiếp, công đức lớn nên con vượt qua bài học này dễ dàng vậy, nhưng có nhiều người, kể cả những bác sĩ giỏi trong thế giới vật chất, phải mất cả cuộc đời mới nhận ra bài học ấy và khi hối hận thì đã hết một kiếp người.

Con có thể chữa cho những đứa nhỏ, và người trong nhà, chữa bệnh lặt vặt thì được, nhưng không thể chữa được những căn bệnh dai dẳng nghiêm trọng, vì nó còn là NHÂN NGHIỆP.

Con dùng Năng Lượng Thanh Tịnh Bổn Nguyên để chữa, nó chỉ hết triệu chứng lúc đó nhưng cái gốc nhân nghiệp còn đó, nó sẽ tái phát lại. Chỉ có bản thân họ thức tỉnh, tỏ thấu gốc rễ sanh tạo nhân nghiệp mà dừng nghiệp, mới giải thoát nghiệp mà dứt nghiệp, thì mới có thể chữa tận gốc bệnh.

Con biết không, bệnh tật không phải là xấu. Bản chất bệnh là để người ta tự phản tỉnh chính mình, tùy theo nhân đã gieo mà nhận quả để giải thoát cái nhân mà thăng hoa tiến hóa.

Khi con chữa bệnh cho họ, là con gánh nghiệp giúp họ mà ôm bệnh tật vào người, nhưng lại không biết rằng sự đánh đổi ấy chỉ chữa được cái ngọn, còn cái gốc vẫn nằm đó, vẫn liên tục sinh sôi nảy nở, và khi con can thiệp vào nhân quả họ, chính là làm chậm sự thăng hoa nhân quả nơi thân tâm họ mà con chẳng biết.

Rồi đến một ngày, theo thời gian thân họ lại bị bệnh và lúc ấy trí lực nơi họ bị suy kém khiến họ chẳng thể tư duy mà nhận ra bài học nhân quả họ đang học là gì, mà giải thoát nó nơi tâm thức hoan hỷ, vui vẻ chấp nhận nó. Và họ sẽ bị tâm ý thức mê mờ ấy dẫn dắt mà theo nó luân hồi, để học lại bài học nhân quả mà họ chưa nhận ra giá trị đích thực nơi nó mang lại cho họ trong kiếp sống làm người này.

Nên con cứ nghĩ là giúp, nhưng thực ra lại thành hại họ. Quan trọng là giúp họ nhận ra cái gốc sinh ra bệnh để giải thoát nó quy bổn, đó mới là thực giúp.”

“Hic, nãy giờ Cô nói con hiểu rồi. Không những hại họ, mà còn là hại chính mình, làm tăng bản ngã si mê chính mình nữa.”

“Y vậy. Nếu con cứ tiếp tục si mê không nhận ra, con sẽ bị cái tâm si mê ấy dẫn dắt mà đi vào ma đạo. Con hãy nhớ, tất cả mọi năng lượng hay sức mạnh mà con thấy, đều là Bổn Nguyên làm. Con chẳng qua chỉ là sợi dây dẫn mà thôi.”

“Vâng, đó chẳng phải là năng lượng nơi con, nên con chẳng có gì đáng tự hào để mà sinh ra tâm ma cả đúng không Cô?”

“Y vậy.”

“Hôm nay con thấy buồn lắm, nhưng con sẽ luôn khắc cốt ghi tâm bài học này... Cảm ơn Cô nhiều, chúc Cô ngủ ngon nhé.”

“Bởi bản chất tâm thức con người là luôn bị thấy biết dẫn dắt mà phát triển tâm thức si mê nhân ngã, điên đảo tưởng tri. Cho nên con nhớ thường xuyên phản tỉnh mọi việc con làm nhằm vì mục đích gì mà thấu tỏ tâm ý thức chính con nhé. Chúc con ngủ ngon.”

Kể từ khi bài học này khép lại, tôi không còn quan tâm đến khả năng chữa bệnh nơi mình mà xem nó là niềm tự hào nữa.

Dần dần, tôi cũng nhìn thấy những người bệnh trước kia tôi chữa, ngay cả con trai tôi với bệnh hen bẩm sinh, cũng bị bệnh quay trở lại…. Nếu cứ tiếp tục si mê, mù quáng chữa bệnh, thì tôi đâu nhận ra những vấn đề mà Bổn Nguyên đang chỉ cho tôi thấy. Đúng là trước giờ tôi chỉ chữa cái ngọn, muốn dứt bệnh chính bản thân người bệnh phải chấm dứt cái gốc sinh ra bệnh, đó là nhân nghiệp đó vậy.

Bệnh si mê nơi bị thấy biết dẫn dắt mới là bệnh khiến ta đánh mất thấy biết chân thật chính mình, để rồi ta chẳng thể nhận ra được giá trị vô thường nơi các pháp, chẳng nhận ra được tâm ý thức bị mắc kẹt khiến năng lượng chẳng lưu thông, dẫn đến thiếu năng lượng mà sinh bệnh tật.

Đó là bệnh si mê trôi lăn sanh tử đời đời kiếp kiếp mà chỉ có kiếp làm người này, nơi thấy biết tư duy phản tỉnh tỏ thấu đối thể tâm ý thức chính ta, mới giúp chúng hiệp nhứt tự triệt tiêu về không mà giải thoát tất cả bệnh, chính là giải thoát mọi trói buộc nơi bị thấy biết đối thể mà luôn tự tại, bình an vào sinh ra tử.

15. TRỊ DỨT BỆNH HEN CHO CON BẰNG THANH TỊNH LỰC A DI ĐÀ PHẬT VÀ THẤU TỎ CHÂN THẬT NGHĨA HAI CHỮ “NGHỀ NGHIỆP”

Một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh trầm cảm của tôi thời điểm đó chính là căn bệnh hen suyễn của con trai gần 2 tuổi. Hàng tháng con đều nhập viện 2-3 lần, số ngày con ở viện nhiều hơn ở nhà và mỗi lần lên cơn hen là khó thở làm cả nhà sợ tán loạn. Càng lớn bệnh tình con tôi ngày càng nặng hơn. Bởi bệnh tật nên bé hay khóc đêm, đêm nào con cũng dậy khóc 3-4 lần khiến sức khỏe và tinh thần vợ chồng tôi xuống cấp trầm trọng. Điều quan trọng nhất chính là nhìn con ốm yếu xanh xao, hai mắt thâm quầng vì mất ngủ, và nhìn con giãy giụa kêu khóc khi những mũi kim thuốc kháng sinh liên tục đâm vào người con, lòng tôi đau quặn không kể siết…

Vào một ngày, con tôi lên cơn hen rất nặng phải nhập viện, quá đau lòng tôi đã vô tình mang cả nỗi buồn ấy vào buổi thiền. Tôi không biết mình đã sai ở đâu, không biết con tôi đã phạm lỗi gì mà mới bé xíu đã phải chịu đựng khổ sở như thế. Tôi sẵn sàng đánh đổi sức khỏe chính tôi, chấp nhận gánh nghiệp thay cho con, chỉ mong có thể chữa khỏi căn bệnh này.

Đêm ấy, khi thiền tôi đã khóc rất nhiều. Tôi đã tâm sự hết lòng mình với Bổn Nguyên. Bổn Nguyên là Mẫu, là người Mẹ tạo ra vũ trụ càn khôn, sinh ra chúng sinh muôn loài. Bổn Nguyên là người Mẹ lúc nào cũng thương yêu những đứa con của mình nên chắc chắn Người sẽ hiểu được tiếng lòng của một người mẹ như tôi.

Tôi đã hướng về Bổn Nguyên, tôi nói với Người rằng tôi biết con tôi đang mang nghiệp gì đó nhưng vì tôi là người trần còn si mê không thể nhận ra, tôi một lòng muốn DỨT NGHIỆP, xin người chỉ cho tôi biết nguyên nhân gốc rễ sinh ra bệnh.

Và như cảm động trước sự chân thành nơi tôi, Bổn Nguyên đã cho tôi câu trả lời…

Bổn Nguyên cho tôi hóa thành một chú chim, bay cao, bay rất xa trên bầu trời mênh mông đầy nắng gió; vượt qua muôn trùng biển, vượt qua không biết bao nhiêu đảo và đồi núi. Tôi cứ là chú chim bay mải miết như vậy, bất giác tôi đã nghĩ thầm: “Vất vả quá…”

Rồi cũng chính tôi là chú chim ấy bay về nhà trong lúc trời chập tối, và chú chim đã khóc thét lên ai oán khi nhận ra những cái tổ là mái nhà của mình… đã bị người ta lấy mất…

Tiếng khóc ấy làm chấn động tâm can tôi, long trời lở đất trong thế giới thiền nơi tâm trí tôi. Tiếng khóc ấy đâu khác gì tiếng khóc hàng đêm của con trai tôi, và sự đau đớn của nó đâu khác gì sự quằn quại trong ruột tôi khi chứng kiến những mũi tiêm đâm sâu vào da thịt con mình…

Và tôi đã nhận ra gốc rễ căn bệnh hen nơi con, chính là vì cái nghiệp làm yến sào nơi tôi, con trai tôi bấy lâu nay đang gồng gánh những oán giận của chúng sinh thay cho tôi, vậy mà tôi không hề nhận ra. Nước mắt tôi khi ấy đã không ngừng tuôn chảy… Nỗi đau mất đi tổ ấm của những chú chim, có khác gì nỗi khổ sở mà bấy lâu tôi phải chịu đựng…khi gia đình xào xáo, vợ chồng mệt mỏi cãi cọ mỗi khi con bệnh. Sao mà thương những chú chim yến quá...

Sau khi tôi NHẬN RA LỖI ở cái nghiệp làm yến của mình, Bổn Nguyên lại tiếp tục cho tôi đi sâu vào người con qua một đường ống dẫn, có lẽ là khí quản của thằng bé. Đây là lần đầu tiên Bổn Nguyên chỉ tôi cách đi sâu vào cơ thể của người khác để xem khối nghiệp trược nơi họ.

Tôi cứ bay trong cái đường ống tối tăm đó cho đến khi trước mắt tôi dần hiện ra một khối đen thui xù xì chất CAO NHƯ NÚI. Tôi cảm thấy choáng ngợp trước ngọn núi đen thui, đen thít ấy, và chợt nghĩ: “Mẹ xin lỗi, mẹ không ngờ nghiệp của mẹ lại tích tụ trong người con một khối trược lớn đến vậy…Khối trược to choán hết các vị trí trong phổi con như thế, bảo sao con không bị khó thở mà lên cơn hen… Mẹ xin lỗi con…”

Và tôi đã đứng đối diện với khối trược ấy một lúc, chẳng thể làm gì ngoài niệm Phật và hướng tình yêu thương đến con… Thật bất ngờ, dần dần theo tiếng niệm Phật của tôi, từ dưới đáy núi khối trược ấy bắt đầu lóe sáng và lan dần ra như lan theo mạch máu, rồi ánh sáng ấy bao phủ hết cả tảng núi. Cả tảng núi chói lòa ánh sáng và hoàn toàn biến mất.

Khi chứng kiến khối trược ấy đang dần bị ánh sáng làm tiêu biến, tôi đã nhận ra ý nghĩa bài học Bổn Nguyên dạy cho mình về bệnh tật.

Phải rồi, BỆNH TẬT KHÔNG PHẢI LÀ XẤU. Bệnh tật xuất hiện để giúp con người tự phản tỉnh chính mình mà tỏ thấu gốc rễ sinh ra bệnh, từ đó dừng nghiệp, chấm dứt nghiệp mà tiêu trừ toàn bộ tận gốc căn bệnh.

Trước thời điểm đó vài tháng tôi đã hoàn toàn không còn làm yến nữa, nhưng khối trược trong người con vẫn chất cao như núi. Từ đó tôi mới thấu hiểu rằng, nghiệp vẫn luôn ở đó, cho đến khi ta nhận diện nó, thấu tỏ gốc rễ sinh ra bệnh thì nghiệp mới được giải thoát mà chuyển hóa.

Đó cũng là LẦN ĐẦU TIÊN, Bổn Nguyên hướng dẫn tôi niệm Phật, dùng ánh sáng Thanh Tịnh chuyển hóa khối đen ô trược đã tích tụ thành nghiệp sanh bệnh phổi nơi con tôi, quy về ánh sáng trong suốt, thanh tịnh giải thoát nó, mà dạy cho tôi chân lý sự thật:

Chỉ có Thanh Tịnh Lực nơi tánh thể A Di Đà Phật mới GIẢI THOÁT tận cùng gốc rễ si mê tạo nên nghiệp bệnh nơi thân tâm con người.

Và đó cũng là LẦN CUỐI CÙNG con tôi bị hen cho tới bây giờ.

Kể từ lần ấy, con trở nên HOÀN TOÀN KHỎE MẠNH và lớn nhanh như thổi. Và lẽ dĩ nhiên, gánh nặng mà tôi gồng gánh bấy lâu nay đã được trút bỏ, tôi cảm thấy nhẹ nhõm, gia đình tôi cũng dần trở nên hòa thuận, hạnh phúc.

Nhưng ý nghĩa của bài học này CHƯA DỪNG LẠI Ở ĐÂY. Về sau khi mà tuệ giác nơi tôi đã phát triển, tôi mới hiểu được LÝ DO CỐT LÕI vì sao sự oán giận của chim yến lại tác động trực tiếp đến cuộc sống con trai tôi và chính tôi.

Đó là vì khi ấy tôi đã không thấu tỏ được Ý NGHĨA THẬT SỰ CỦA NGHỀ YẾN SÀO - CẦU NỐI TRUNG GIAN GIÚP TRUYỀN TẢI SỰ HY SINH, CỐNG HIẾN THẦM LẶNG CỦA LOÀI CHIM YẾN, ĐỂ PHỤNG SỰ CON NGƯỜI, GIÚP CON NGƯỜI CÓ ĐƯỢC CUỘC SỐNG TỐT ĐẸP HƠN. Bởi tôi đã bị si mê ngăn che trí tuệ, khiến cho tôi sống bằng thái độ vô ơn mà tạo nghiệp.

Những năm tháng làm yến, nghề đã dạy tôi rất nhiều kiến thức quản trị doanh nghiệp, giúp tôi có thu nhập để chăm lo cuộc sống gia đình tôi; giúp tôi trả lương cho những người thợ cần mẫn nhặt lông yến, lương cho nhân viên và những đồng lương ấy lại giúp nuôi sống gia đình họ; hay chính những tổ yến ấy lại đem lại thu nhập, phụ chăm lo cuộc sống cho những người đại lý bán hàng.

Còn chưa kể đến những người bệnh, không thể ăn được gì, yến sào là nguồn thực phẩm giúp duy trì sự sống nơi chính họ…

Ngày trước tôi đều thấu hiểu được hết những giá trị lợi ích nghề yến mang lại cho con người, tôi hiểu rất rõ ý nghĩa của công việc mình đang làm, nhưng chỉ là hiểu theo khía cạnh một chiều nơi con người, thật không ngờ tôi lại vô tình ngày ngày tạo nghiệp mà không biết.

Chỉ diễn một cảnh chim bay mà Bổn Nguyên giúp tôi thấu hiểu được SỰ HY SINH CAO CẢ của những chú chim yến, khi mà họ đã HY SINH toàn bộ sức lực, nước miếng của chính mình, CỐNG HIẾN toàn bộ tổ ấm, mái nhà của mình để PHỤNG SỰ cuộc sống của con người.

Vậy mà tôi đã KHÔNG NHẬN RA sự cống hiến thầm lặng của những chú chim ấy. Tôi đã không những KHÔNG NGHĨ ĐẾN, KHÔNG BIẾT ƠN chim yến, mà chỉ nghĩ đến con người, để rồi xem chim yến chỉ là CÔNG CỤ, xem tổ yến là những vật VÔ TRI VÔ GIÁC. Tôi đã đối xử tốt với người, kiếm được đồng lời chăm lo gia đình, mà chẳng mảy may nghĩ đến SỰ HY SINH của những chú chim yến. Tôi thật quá BẤT CÔNG.

Chính vì SỰ BẤT CÔNG, SỰ VÔ TÌNH, VÔ ƠN đã khiến tâm thức oán giận, buồn tủi của loài chim yến trở thành ĐỐI THỂ, ĐỐI CHỌI với tâm thức thương người nơi chính tôi mà sinh ra nghiệp. Theo năm tháng nghiệp lực ai oán tích tụ chồng chất trên cơ thể con tôi sinh ra khổ đau, quằn quại, bệnh tật…

Bổn Nguyên cho tôi làm yến để cho tôi trải nghiệm, học hỏi cái tâm phụng sự nhân sinh, mà duy trì sự sống nơi tôi và gia đình cùng các bạn đồng nghiệp; để đến giờ phút này, tác hại nơi tâm thù hận, oán trách nơi nó mang lại bệnh tật cho con tôi, tôi mới THẤU TỎ sự vô tâm, vô tình, chẳng thấu hiểu GIÁ TRỊ HY SINH nơi chim mà biết tri ân nó.

Chính TÁC HẠI nơi ngành yến sào mang lại cho đời sống gia đình tôi, mới thực là GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC GIÚP THỨC TỈNH tầm nhìn hẹp hòi, nông cạn chỉ biết nghĩ cho con người - mà đánh mất cái tâm thức NHỚ ƠN, TRI ÂN loài chim, cho đến các loài vật đã hy sinh mạng sống của nó phụng sự cho sự sống con người - mà biết TRÂN QUÝ loài vật, hiểu được giá trị kiếp sống muôn loài hòng đem tất cả tinh thần và sức lực phụng sự cho sự sống nhân sinh mà đồng cùng nhau thăng hoa tiến hóa.

Hiểu được điểu ấy, ta sẽ BIẾT ƠN LOÀI CHIM YẾN. Chính sự biết ơn này sẽ là TRỢ LỰC để loài chim yến hiểu được GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG chính mình, bởi lẽ bất kỳ sinh vật nào cũng cần ĐÓNG GÓP SỨC LỰC chính mình để phụng sự con người mà TÍCH LŨY CÔNG ĐỨC ĐỂ THĂNG HOA TIẾN HÓA, để rồi khi đủ công đức sẽ được thoát kiếp súc sinh, tròn nhân làm người.

Hãy YÊU THƯƠNG chim yến, và TRÂN TRỌNG những tổ yến trên tay ta để hóa giải oán giận, chuyển hóa nó thành ánh sáng trong suốt GIẢI THOÁT SI MÊ cho tâm thức loài chim và cũng cho chính tâm thức ta.

Chim yến cảm nhận được Tình Yêu Thương nơi lòng người dành cho nó, khi có Tâm Yêu Thương thì cách đối xử của người với loài chim sẽ khác, ý nghĩa thu hoạch tổ cũng sẽ khác.

NGHỀ chỉ chuyển thành NGHIỆP khi ta không rõ thấu TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ chính ta, để nó triệt tiêu về không mà soi thấu giá trị đích thực của nghề, để ta luôn sống bằng sự tri ơn muôn loài mà phụng sự nhân sinh. Để rồi ta bị si mê dẫn dắt, tạo nhân vô ơn, vô tình mà ôm trọn quả nghiệp vào người.

Người làm yến, hưởng lợi từ chim yến, hãy yêu thương và trân trọng chim, hãy làm những việc thiện lành từ những đồng tiền kiếm được để hồi hướng cho những chú chim được thăng hoa tiến hóa. Người có yến ăn, hãy ăn yến với sự biết ơn, trân trọng.

Giờ đây, tuy không còn làm yến nữa, nhưng mỗi khi nhìn trên bầu trời thấy những cánh chim yến bay lượn, tôi lại luôn thầm cảm ơn, và niệm Phật hồi hướng tới chim yến với tình yêu thương đong đầy. Chỉ có tình yêu thương mới giúp chúng ta và loài chim nhận ra giá trị đích thực nơi cuộc sống chính mình, từ đó cùng nhau thăng hoa tiến hóa.

16. TIẾP TỤC DÙNG NĂNG LƯỢNG BỔN NGUYÊN THÔNG QUA HẠNH NGUYỆN MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT NƠI CHÚ PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI ĐỂ THẤU TỎ TOÀN DIỆN HAI CHỮ “NGHỀ NGHIỆP”

Giai đoạn gần đây, tôi được Bổn Nguyên dạy cách dùng năng lượng Mười Phương Chư Phật nơi chú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni làm chìa khóa mở cánh cửa thời gian thức a lại da, để thông qua giấc mơ, tôi GIẢI THOÁT cho những tâm thức bị mắc kẹt nơi chính tôi trong quá khứ.

Tôi đã được Bổn Nguyên cho quay về quá khứ xa xăm, trở về một ngôi nhà cổ và có lẽ là ở một vùng quê ở Trung Quốc. Khu nhà có hai căn tách rời nhau và được bao bọc bởi một khoảng sân rộng. Tôi mở cổng đi vào sân rồi bước vào một căn nhà nhỏ, được làm bằng gỗ và đất sét.

Vừa bước vào tôi đã GIẬT MÌNH HOẢNG HỐT khi nhìn thấy một nửa nền nhà là một tầng hầm sâu thẳm tối đen, và thỉnh thoảng lửa dưới đó phực lên. Rồi khi nhìn sang bên cạnh, tôi thấy một nam thanh niên cỡ tuổi tôi đang cầm một cây sắt to giống như cây đinh ba, chọc sâu xuống dưới hầm và đâm cổ lôi lên MỘT CON CHÓ. Con chó giãy giụa kêu gào thảm thiết, hai mắt tóe lửa phừng phực đầy căm phẫn. Nó bị người thanh niên ném mạnh vào tường và nằm sóng soài trên nền nhà.

Thấy cảnh đó, tôi đã vô cùng KINH HÃI mà ù té chạy. Khi chạy ra đến cổng, tôi bị người thanh niên đó chặn lại không cho ra, tôi quay lại thì nhìn thấy cũng chính là người đó đang nằm dài trên đất ôm đầu quằn quại và bị con chó đó xồng xộc lao vào như đang muốn cắn xé.

Thấy cảnh đó bất giác tôi đã lao tới can ngăn. Rồi bỗng nhiên không hiểu sao, chú chó cũng thôi không phừng phực tức giận nữa mà chỉ ngồi im như chờ đợi điều gì.

Đỡ người thanh niên ngồi dậy, lấy hết bình tĩnh, tôi nhìn vào mắt anh ta và nói dõng dạc: “Tôi biết anh làm nghề thịt chó, tôi không phán xét nghề nghiệp của anh vì đó là nghề đã được ấn định cho anh làm ở kiếp này. Không có nghề thiện hay nghề ác, thiện hay ác đều từ tâm mình mà ra.”

Tôi quay sang nói với chú chó, đó là một chú chó cỏ vàng với đôi mắt trong veo, đen thui và vô hồn: “Mỗi súc sinh có mặt trong cuộc đời, đều là để đóng góp chính mình mà phụng sự con người, từ đó tích lũy công đức để thăng hoa tiến hóa, đủ phước đức sẽ thoát kiếp súc sinh mà tròn nhân làm người. Như ngươi là chó, đem sức mình để trông nhà giúp đỡ chủ nhân, người ta làm thịt ngươi cũng là để cho ngươi có công đức khi hy sinh thân mình mà cống hiến phụng sự bữa ăn cho con người. Ngươi không thấy ý nghĩa lớn lao của cuộc đời ngươi hay sao mà lại sinh tâm oán hận để rồi chẳng thể giải thoát?”

Rồi tôi lại quay sang nói với người thanh niên: “Anh giết chó cũng là để hóa kiếp cho chúng, vì bản thân súc sanh nào cũng cần được hóa kiếp, không cách này thì cách khác. Nhưng tâm thức chúng sinh có được thăng hoa giải thoát hay không là ở cái tâm của người giết nó.

Nếu anh giết nó vì bất đắc dĩ để kiếm sống, để có miếng cơm manh áo phục vụ cuộc sống, thì anh hãy thương nó và tri ân nó, vì nó là ân nhân của anh. Hiểu như vậy anh sẽ có cách giết nhẹ nhàng hơn, chứ không phải ném nó vào tường hay đập bể đầu nó, để rồi nó sinh tâm oán hận anh. Còn nếu như anh giết nó vì thú vui, vì để thỏa mãn lòng tham vô đáy, vì để phục vụ bản ngã si mê chính mình thì tâm thức chúng sanh sẽ si mê theo anh mà oán hận, đeo bám anh đời đời kiếp kiếp không bao giờ buông tha. Anh gặp cảnh này, tất cả đều từ cái tâm si mê nơi anh mà ra.”

Lời nói vừa dứt, khung cảnh khi ấy tan biến, tôi lại thấy mình đang ngồi trong gian nhà khác, quanh một cái bàn gỗ vuông, người thanh niên và con chó ngồi ở hai đầu hai bên. Tôi với họ dường như đang chơi bài, tôi là người thắng chung cuộc và được quyền rút bông hoa to duy nhất cắm trên bình bông để trên bàn. Tôi rút bông hoa đó lên, tay còn lại lại thò xuống dưới gầm bàn và như rút tiếp cái gì đó ở dưới đáy bình hoa vậy.

Ồ, hóa ra nằm ẩn sâu bên trong bình hoa là những cành cây bị cắt ngọn, và còn có những bông hoa nhỏ li ti màu trắng tinh khiết. Nhìn chúng nằm gọn trong lòng bàn tay mình, tôi đã thầm nghĩ: “Phải rồi, để có được một bông hoa to đẹp nhất nở rộ, ẩn đằng sau đó là biết bao nhiêu sự đóng góp và hy sinh thầm lặng. Hãy biết TRÂN TRỌNG những sự cống hiến ấy để cùng nhau thăng hoa tiến hóa.”

Khi nghĩ đến đó, tất cả khung cảnh đều biến mất, thức a lại da khép lại chỉ còn mịt mờ mây khói, tôi bị đẩy ra ngoài và tỉnh giấc.

Thời gian trước đó, Bổn Nguyên đã khai mở trí tuệ giúp tôi thấu hiểu giá trị nghề yến sào để có cái nhìn chân thật về “nghề nghiệp”. Và bây giờ, trong một giấc mơ, Bổn Nguyên đã dẫn linh thức tôi đi gặp một người GIẾT CHÓ là tiền kiếp của tôi; để tôi ĐỐI DIỆN với trạng thái NGƯỜI GIẾT CHÓ và tâm thức CON CHÓ BỊ GIẾT mà thực biết họ đang bị kẹt gì nơi “nghề nghiệp” giết chó này, và họ đã sống mãi nơi tâm thức bị mắc kẹt ấy để chờ tôi đến giải thoát.

Từ đó giúp tôi THẤU TỎ SÂU SẮC VÀ TOÀN DIỆN Ý NGHĨA HAI CHỮ NGHỀ NGHIỆP, ĐỂ RỒI NƠI TÔI KHÔNG CÒN SỰ PHÁN XÉT ĐỐI VỚI NGHỀ NGHIỆP TRÊN THẾ GIAN NỮA.

Tôi đã được Bổn Nguyên cho cơ hội dùng TRÍ TUỆ TỎ THẤU NGUYÊN NHÂN tâm thức con người và chú chó sân hận mà cấu xé lẫn nhau, để KHAI SÁNG cho những tâm thức bị mắc kẹt ấy.

NGƯỜI GIẾT CHÓ HIỂU RẰNG: mình cũng chỉ vì kế sinh nhai mới làm nghề giết chó, nhưng cũng là để giúp chó kết thúc một kiếp súc sinh mà chuyển hóa kiếp khác, từ đó giải tỏa tâm thức bị mắc kẹt nơi tâm thức con người khi cho rằng nghề giết chó là ác.

CHÚ CHÓ CŨNG HIỂU RA GIÁ TRỊ CỦA CUỘC ĐỜI MÌNH: là để đóng góp thân mình mà phụng sự nhân sinh, từ đó hoan hỷ mà xóa bỏ hận thù, liền thăng hoa giải thoát tâm sân hận.

Tôi đã từng làm NGHỀ GIẾT CHÓ, việc giết chóc ấy nuôi sống tôi và gia đình. Nhưng ngược lại, sự oán giận của những chú chó lại quay sang đay nghiến người giết nó, đeo đuổi một phần ý thức bị mắc kẹt mà sống mãi nơi niệm sân hận ấy.

Tương tự như NGHỀ YẾN SÀO (như tôi đã viết ở bài trước) thì song song với lợi ích to lớn cho người làm yến và ăn yến, nó lại đem theo bệnh tật nơi thân con người được tích tụ từ những tâm oán hận con người đã tước đoạt mất tổ ấm.

Từ đó ta hiểu rằng: tất cả những giá trị mà con người thọ nhận nơi muôn pháp đều luôn tồn tại HAI MẶT SONG HÀNH, thấy lợi ích liền sanh tác hại, để con người thọ nhận sự lợi ích cũng đồng thọ nhận sự tác hại nơi pháp ấy. Cho đến khi ta nhận ra ĐỐI THỂ CHÍNH NÓ để chúng triệt tiêu quy về không, ấy là GIẢI THOÁT TẤT CẢ NHÂN NGHIỆP do pháp ấy tạo ra, cũng chính là GIẢI THOÁT PHÁP MÀ THĂNG HOA hòa cùng tiến hóa vũ trụ càn khôn.

Nghề nghiệp luôn gắn kết cùng sự sống con người để con người dụng nó kiếm tiền nuôi sống thân mạng cho mình và người thân, và nhờ thân mạng này con người mới trải nghiệm được muôn pháp do thấy biết nơi ta tạo ra mà học hỏi, thực chứng giá trị pháp ấy nơi trí tuệ tư duy nguồn gốc sanh khởi pháp ấy, mà thấu tỏ bản chất pháp ấy hòng biết quy luật vận hành muôn pháp hình thành sự sống muôn loài.

BẢN CHẤT NGHỀ NGHIỆP LÀ CẦU NỐI TRUNG GIAN GIÚP TÂM THỨC CON NGƯỜI VÀ MUÔN LOÀI ĐỘNG - THỰC VẬT TƯƠNG TÁC MÀ PHỤNG SỰ LẪN NHAU, ĐỂ CÙNG ĐỒNG THĂNG HOA TIẾN HÓA.

Ví như nghề giết mổ gia súc, gia cầm; nghề nuôi bò lấy sữa; nghề yến sào; nuôi trồng – đánh bắt hải sản… bản chất ý nghĩa nghề là CẦU NỐI TRUNG GIAN GIÚP TRUYỀN TẢI SỰ HY SINH, CỐNG HIẾN THẦM LẶNG CỦA MUÔN LOÀI SÚC SINH, ĐỂ PHỤNG SỰ CON NGƯỜI, GIÚP CON NGƯỜI CÓ ĐƯỢC CUỘC SỐNG TỐT ĐẸP HƠN. Khi thấu tỏ được chân thật ý nghĩa ấy, ta sẽ có tình thương yêu, có sự biết ơn và trân trọng đối với chúng sinh; không để lòng tham si mê dẫn dắt mà có những hành động tạo nghiệp.

Cũng bởi vì tỏ thấu sự HY SINH của chúng sinh khi đóng góp chính mình để làm thức ăn cho con người, ta mới thấu hiểu GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG BỮA ĂN HÀNG NGÀY. Ta sẽ ăn với một thái độ biết ơn và trân trọng, ta sẽ ăn vừa đủ chứ không tham lam, cũng không có sự thừa thãi lãng phí. Từ đó tâm thức chúng sanh bám chấp trên thân xác cũng sẽ CẢM NHẬN ĐƯỢC GIÁ TRỊ cuộc đời mình mà giải thoát tâm thức bám víu, si mê để thăng hoa tiến hóa, không sinh tâm oán hận tạo ra bệnh tật nơi người ăn mình.

Ví như ý nghĩa đích thực của nghề cầm đồ, cho vay tiền góp… là DÙNG ĐỒNG TIỀN LÀM CẦU NỐI TRUNG GIAN ĐỂ GIÚP NGƯỜI XỬ LÝ VẤN ĐỀ TÀI CHÍNH, ỔN ĐỊNH CUỘC SỐNG.

Hiểu được giá trị nghề như vậy, hành động đưa tiền sẽ mang giá trị nhân văn giúp ích cho đời, đồng tiền sẽ mang một sức mạnh trợ lực to lớn, giúp người nhận tiền giải quyết suôn sẻ vấn đề bế tắc nơi chính họ.

Hiểu vậy, cách hành xử của ta với người nhận tiền cũng khác, tâm thế và thái độ ta cũng khác. Tất cả mối quan hệ tương quan đều hoàn toàn tạo lập bằng tình thương và sự giúp đỡ sẽ không hề sinh ra nghiệp báo từ tâm thức tỏ thấu bản chất nghề nghiệp nơi ta.

Người làm nghề mà không nhận ra giá trị nghề, không tỏ thấu cái tâm tham muốn nơi chính mình, thì sẽ bị tâm si mê dẫn dắt, nên NGHỀ sẽ chuyển thành NGHIỆP, tất cả đều do tâm thức ý thức đối thể nơi ta tạo ra. Khi ta bị si mê, mọi hành động lời nói nơi ta đều do tâm tham muốn dẫn dắt, muốn một đường nhưng gieo nhân một nẻo mà lừa đảo chính ta, để ta luôn bất như ý mà sanh nên phiền não, đau khổ.

Do vậy, tâm ý thức ta luôn là con lừa vĩ đại lừa gạt ta, nhưng không bao giờ lừa được bổn thể thấy biết chính nó luôn lưu giữ nó nơi thức a lại da. Tất cả đều được tâm thức Bổn Nguyên sao chụp lại chi tiết không sai chút nào. Nhân tham muốn si mê tạo từ tâm ý thức ta đã gieo, sẽ là đối thể chính nó mà tạo nên nghiệp báo đập lại ta sinh ra bệnh tật để ta thọ quả mà triệt tiêu nhân ấy.

Ta chẳng biết nguyên nhân tạo nên bệnh, sanh tâm ý thức buồn khổ, phiền não, khiến cho chúng sanh nơi cơ thể ta càng bị mất năng lượng trầm trọng mà thành bệnh nặng hơn, rồi các bộ phận liên đới đều bị ảnh hưởng, làm kéo dài khổ bệnh triền miên nơi thân người. Ta vẫn chưa rõ thấu nguyên nhân gốc rễ tạo nên bệnh mà vẫn tiếp tục gieo nhân, để rồi khi mất thân, nhân chủng ấy lưu giữ nơi thức a lại da dẫn dắt ta đi luân hồi chịu quả tiếp nơi kiếp vị lai, mà xoay vần mãi như ngày và đêm, là bởi ta si mê không hiểu lý do vì sao ta bị.

Bổn Nguyên đã dạy tôi tư duy phản tỉnh chính mình, dạy tôi suy ngẫm sâu sắc về ý nghĩa thực sự của nghề nghiệp, để rồi khi thấu tỏ, TÔI KHÔNG CÒN PHÁN XÉT ĐỐI VỚI NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI KHÁC.

KHÔNG CÓ NGHỀ THIỆN HAY NGHỀ ÁC, KHÔNG CÓ NGHỀ CAO SANG HAY THẤP HÈN. Bất cứ nghề nào cũng đều do đấng tạo hóa Bổn Nguyên sắp đặt theo căn tánh, tính cách nơi con người. Mỗi nghề nghiệp đều có giá trị bình đẳng, để tạo ra những mắt xích quan trọng đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Thông qua việc hành nghề, mỗi người tự trải nghiệm, học tập phát triển bản thân và nhận ra bổn tâm chính mình nơi nghề đó, hiểu được GIÁ TRỊ nghề mang lại, hoan hỷ đóng góp sức mình cho sự phát triển của xã hội, để rồi theo sự hiểu biết ấy mà thăng hoa tiến hóa.

Công việc mỗi người mỗi khác nên trải nghiệm những bài học và giá trị đích thực nhận được từ nghề nghiệp đều chẳng ai giống ai.

THẬT KHÔNG NGỜ tôi là người rất thương yêu động vật, vậy mà trong quá khứ tôi lại từng làm cái nghề mà lâu nay tôi thường phán xét! Và chính tâm thức mình đang bị mắc kẹt, bủa vây bởi bóng tối u minh mà ở mãi nơi đó. Chính sự phê phán nơi kiếp người này của chính tôi, lại như những mũi dao đâm vào tâm thức đau khổ chính tôi mắc kẹt lại trong quá khứ, khiến tâm thức ấy lại lún sâu trong vũng lầy si mê mà không thể giải thoát.

Sự chỉ trích, phán xét nghề nghiệp đều là do tâm ý thức đối thể nơi ta tạo ra, và chính nó quay lại chỉ trích phán xét đối thể chính nó là tâm ý thức nơi ta.

Cho nên, khi ta phán xét người, là lúc ta tạo nên những mũi dao nhọn đâm thẳng vào người họ, tạo nên lực oán đối giữa ta và họ, và cũng chính mũi dao nhọn ấy quay lại đâm thẳng vào tâm ta, hại ta và người trói buộc lẫn nhau trôi lăn luân hồi trong vũng lầy si mê mà ta chẳng biết.

Con người làm nghề gì đều theo đúng nhân duyên chính nó, khi hết duyên họ sẽ làm nghề khác mà trải nghiệm và học trong cái nghề của mình.

Hiểu vậy, ta sẽ NGỪNG PHÁN XÉT, CHỈ TRÍCH mà chỉ niệm Phật hồi hướng cho họ bằng tình yêu thương, nguyện giúp họ giải thoát khỏi si mê, dừng tạo nghiệp, đó chính là thực giúp.

SÌNH BÙN LÀ DƯỠNG CHẤT NUÔI SEN NỞ. Người còn si mê, nhưng một khi đã thức tỉnh, thấu tỏ nghiệp, dừng nghiệp mà giải thoát nghiệp thì trí tuệ sẽ nở hoa mà tỏa ngát hương thơm.

Những bài học thường ngày Bổn Nguyên dạy tôi nơi các pháp diễn ra xung quanh tôi, đều là bài học mang ý nghĩa chân thật về tâm đạo đức, để tôi đem nó áp dụng vào đời. Để tôi thấu triệt rõ ràng rằng đạo đời là nhứt như không thể tách rời. Từ đó tôi luôn sống trong sự biết ơn, luôn tri ân muôn pháp, và nguyện cùng Bổn Nguyên đem thấy biết chân thật nơi tôi tỏ thấu mà phụng sự cho nhân loại.

17. CHÂN THẬT SÁM HỐI VÀ GIẢI THOÁT NGHIỆP ĐỜI ĐỜI KIẾP KIẾP BẰNG THANH TỊNH LỰC A DI ĐÀ PHẬT
“Cô ơi, ghê lắm Cô ơi, lại có truyện kể nữa rồi!”

“Gì vậy con?”

“Nãy con thiền, sau khi trì Chú Đại Bi xong con ngồi niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” như bình thường. Rồi tự nhiên trong đầu con khởi lên ý nghĩ là con SÁM HỐI TẤT CẢ LỖI LẦM NƠI CON TRONG QUÁ KHỨ, dù là vô ý hay cố ý. Tất cả những lỗi lầm mà con nhớ được là con kể hết ra và hứa sau này không phạm phải nữa.

Khi con kể hết thì con lại thấy toàn bộ người con như tắt điện tối thui, rồi có một lực gì đó ép con dẹp lép theo chiều từ trên xuống.

TRỜI ƠI!!! CON THẤY KHÍ ĐEN XUNG QUANH NGƯỜI CON BỐC LÊN, CUỒN CUỘN ĐI Y NHƯ VŨ BÃO!

Tạo thành cột xoáy lốc kinh dị Y NHƯ VÒI RỒNG bọc xung quanh con đó Cô! Nó bốc lên dữ dội, thấy ghê dễ sợ! Con cảm thấy nó còn dữ dội hơn gấp trăm lần vòi rồng con thấy trên phim. Mà nó đi lâu lắm, cũng phải 30 phút mới hết!”

“Khi con khởi niệm sám hối, tất cả tội từ vô thỉ kiếp, tánh thể tự vận hành các niệm chúng sanh si mê quy tụ về mà giải thoát. Đó là con chân thật sám hối.

Còn sám hối mà chẳng tỏ thấu gốc rễ tạo nên chúng sanh si mê nơi thấy biết chính mình, thì chỉ là sám hối cái ngọn.

Ngay nơi ý niệm khởi sám hối liền sanh thấy người không sám hối mà trói buộc mình nơi ý niệm đối thể. Ấy là chẳng thật sám hối.

Cũng là để cho con thấy, tập khí ấy tích tụ nhiều đời nhiều kiếp, cho đến kiếp này con mới GIẢI THOÁT được cho nó. Và để cho con biết, nếu nghiệp mà có hình tướng, nó tràn đầy cả không gian.”

“Con hiểu rồi, vậy là cảnh lốc mà con thấy chính là vì con đã CHÂN THẬT SÁM HỐI. Và khi con thành tâm niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, con và niệm ấy nhứt như, tánh thể đã SOI TỎ các niệm si mê, khiến chúng kết tụ thành lốc khí đen mà chuyển hóa bay về nơi chúng sinh ra.

Mà con thấy KINH HÃI QUÁ! Sao trong người con lại tích tụ quá nhiều nghiệp như vậy, đi mãi mà không thấy dứt! Nếu hôm nay con không sám hối thì không biết phải mất BAO LÂU NỮA MỚI TRẢ HẾT những nhân nghiệp bốc lên như lốc xoáy đó!

Tại sao con là người đã tu rất nhiều đời nhiều kiếp mà nghiệp lại nhiều dữ vậy?

Vậy có phải là dù cho người tu hành hay không tu hành thì cũng đều giống nhau về nghiệp BỊ THẤY BIẾT SI MÊ, đúng không Cô?”

“Đúng đó con, có điều người tu hành là vì chúng sanh mà tạo nghiệp, để trải nghiệm và học. Rồi cũng sẽ vì chúng sanh mà dứt nghiệp. Còn người không tu hành thì vì mình mà tạo nghiệp.

Bản chất nghiệp y như sình bùn, là dưỡng chất nuôi sen nở hoa đó con. Biết sám hối là dừng nghiệp mà GIẢI THOÁT nghiệp, si mê chuyển hóa thành tuệ giác, là thấy biết chân thật Bổn Nguyên.

Khí tích tụ nơi tâm thức con người gọi là nghiệp “tà kiến xấu ác”, chỉ khi con người sống cùng thấy biết Bổn Nguyên mới giúp nó GIẢI THOÁT TẬN GỐC.

Con nên nhớ, chỉ có Phật mới là người chân thiện, còn nhân sinh đều là nhân nghiệp tà kiến si mê. Do con chân thật sám hối bằng tâm đại bi yêu thương chúng sanh, phối hợp thần lực nơi Chú Đại Bi, mới thu nhiếp chúng sanh quy về tánh thể thanh tịnh A Di Đà Phật mà giải thoát.”

“Dạ, con hiểu rồi. Mà “tà kiến xấu ác” là gì hả Cô?”

“Tất cả những tâm ý thức nơi ta sanh tạo từ đối thể các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều là bị thấy biết ngăn che giác thể, khiến ta thấy biết người bằng tâm ý thức nơi ta mà lầm nhận.

Việc lầm nhận ấy khiến ta chẳng tỏ thấu được tâm ý thức nơi ta mà thật biết muôn pháp nơi thấy biết ấy diễn ra xung quanh ta, ấy là thấy biết mê mờ làm ta chẳng tỏ thấu biết được chân thật bản chất muôn pháp, nên là thấy biết tà kiến xấu ác.

Y như khi ta thấy mây che khuất mặt trời là thấy biết lầm nhận.

Bởi sự thật là mặt trời luôn soi sáng đám mây.”

“Nghĩa là nghiệp “tà kiến xấu ác” do tâm thức đối thể chính ta sinh ra, khi ta cứ luôn phóng ý niệm về phía người khác, và chính điều đó làm cho ta bị si mê, không tư duy phản tỉnh chính mình mà rõ thấu chính mình.

Ví như mình luôn phán xét người khác, hay luôn phê phán người ta là ác, và nhận mình là thiện. Hay khi có chuyện xảy đến, lại đổ lỗi cho người khác mà không nhận ra vấn đề là do tâm thức mình sinh ra và không nhận ra bài học Bổn Nguyên đang dạy cho mình… Có phải vậy không Cô?”

“Đúng rồi con, tà kiến xấu ác là thấy biết hại mình chẳng thực biết chính mình, chẳng thực biết muôn pháp, mà tỏ thấu bản chất muôn pháp, khiến ta lầm mê mà trôi lăn luân hồi sanh tử.”

“A, vậy là con hiểu Ý NGHĨA NƠI TÂM CHÂN THẬT SÁM HỐI rồi nè!

Có phải đó là TÂM PHẢN CHIẾU nơi tánh thể thanh tịnh, mới SOI SÁNG TỎ THẤU BẢN CHẤT CHÚNG SINH SI MÊ nơi con. Chúng sinh si mê ấy là những tập khí huân tập thành LUỒNG KHÍ ĐEN, được kết thành lực và vận hành khí ấy như vòi rồng tạo nên LỰC NGHIỆP.

Và GIẢI THOÁT hết khí đen cũng chính là giải thoát hết lực nghiệp bị thấy biết si mê, mà tỏ thấu bản thể muôn pháp là thể rỗng không, cũng chính là tỏ thấu mặt trời luôn soi sáng đám mây, là CHÂN THẬT THẤY BIẾT, phải không Cô?”

“Y vậy, tất cả đều là dụng TÁNH THỂ SOI THẤU mà giải thoát chúng sanh si mê, hiệp nhứt hòa cùng Bổn Nguyên, chẳng còn chúng sanh, chẳng còn ý niệm sám hối nơi thể rỗng không rõ biết. Ấy mới thực là chơn sám hối.”

“Còn nữa nè Cô, nãy con chưa kể hết!

Sau khi con thấy lốc bay lên hết, con vẫn tiếp tục niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, thì con lại nhìn thấy trong người con xuất hiện một khối đen thui thùi lùi hình chóp, từ trong lòng con bắt đầu trồi dần lên! Nhìn nó nguyên tảng hệt như một HÒN NÚI ĐEN!

Nó cao dần rồi cứ lừ lừ trồi lên, dâng lên ngực, rồi lên cổ họng con. Nó lên đến đó thì tánh thể bắt con ngửa đầu và há miệng ra rồi tảng núi đó bắt đầu hóa khí bay ra ngoài.

Lúc đó con thấy sợ lắm, vì không biết đang có chuyện gì. Bụng con thì sôi lên sùng sục, cổ họng con phát ra tiếng kêu ặc ặc như sặc nước. Rồi nước trào ra hai bên mép miệng con chảy ra ngoài, con ngửi thấy có mùi hôi như cống đó Cô!

Trời ơi, lúc mà con thấy nước chảy ra hai bên mép, con cứ tưởng tượng là con đang bị hộc máu đen, nước đó là máu của con chứ!

Nhưng mà khi cái khối đó đi hết và xả thiền thì con phát hiện cả miệng con chứa đầy nước! Tất cả chỉ là nước miếng mà sao nhiều kinh khủng, mà nãy con thiền thấy có mùi hôi thối nhưng giờ con ngửi lại không thấy mùi gì hết!”

“Đó là khối LÕI TRƯỢC SI MÊ TÍCH TỤ nơi thân tâm con từ nhỏ tới giờ. Y như nước đọng lắng cặn cáu bẩn lâu ngày thành khối núi đen thui. Nó làm cốt lõi cho khối nước THAM MUỐN bị thấy biết ngăn che lại, thành ao tù tâm thức mà tích chứa khối nước TÂM THỨC THAM MUỐN ấy.

Cũng nhờ sự sám hối chân thành nơi con mà lực thanh tịnh tánh thể đã soi thấu, làm phá vỡ ao tù tâm thức.

Ao tù tâm thức ấy là do bị thấy biết ngăn che giác thể tạo nên, nhằm mục đích nhốt cái tâm tham muốn thấy biết người, thấy biết cảnh vật, để rồi chẳng thể tỏ thấu tâm ý thức đối thể, mà thực biết muôn pháp nơi thấy biết ấy.

Ao tù ngục thức được đập bể, tâm tham muốn như dòng nước tràn ra, đẩy tất cả khối lõi trược mà nó tích tụ thoát ra ngoài hóa khí bay về nơi nó sanh ra.

Khối lõi trược si mê giải thoát về thể rỗng không Bổn Nguyên.

Bây giờ có phải con đang rất nhẹ đúng không?”

“Dạ đúng! Con thấy nhẹ nhàng lắm!

Vậy nghĩa là BỊ THẤY BIẾT NGĂN CHE GIÁC THỂ y như một bức vách dựng lên ngăn che tạo thành ao tù. TÂM THAM MUỐN như dòng nước bị ngăn lại tạo thành ao tù nước đọng tâm thức.

Theo thời gian tâm thức tham muốn huân tập chồng chất thành ao tù nước đen, nơi nước đen tâm thức tham muốn ấy, các chất dơ bẩn nơi thấy biết tà kiến, định kiến bảo thủ, kết tụ lại thành khối núi đen sừng sững.

Khi con niệm Phật thâu nhiếp tất cả chúng sanh nơi tâm thức quy về sám hối, cũng chính là phá vỡ ao tù tâm thức tạo từ bị thấy biết ấy và ĐẨY luôn cái lõi trược ra ngoài.

Trời ơi, khối trược trong người con lừ lừ xuất hiện mà con thấy nó gớm như quái vật, rồi tưởng tượng con bị hộc máu, bốc mùi hôi thối… Làm con sợ quá trời! Nhưng mà được cái càng sợ thì con lại càng niệm Phật, hihi.”

“Đúng vậy, khối trược đó tích tụ trong người ta, năm này qua năm khác chồng chất mà kết thành tảng, để rồi đến một lúc nào đó, nó hung dữ như quái vật hành hạ cơ thể sinh ra đủ loại bệnh tật đó con.”

“Hôm nay Bổn Nguyên cho con thấy vòi rồng với núi đen ghê quá! Đúng là xưa giờ không biết gì nên tạo nghiệp mà nghĩ rằng chẳng ai biết, có khác nào điếc không sợ súng, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.

Tất cả nhân nghiệp đều được lưu giữ nơi thức a lại da, và cứ nằm đó đời đời kiếp kiếp chờ cơ hội đủ duyên trổ quả. Đến kiếp làm người này, gặp đủ thứ chuyện may mắn, xui xẻo mà không biết rằng mình đang trả quả nơi nhân quá khứ, vì vốn dĩ khi đầu thai mình đã quên mất tiêu nhân gieo tạo, để rồi không biết đường SÁM HỐI ĂN NĂN, tiếp tục tạo nghiệp chồng chất.”

“Y vậy, nên đời này Bổn Nguyên vận hành nhân quả thiện ác đáo đầu, trả ngay lập tức để chúng sanh học ngay đó con, chứ chẳng phải chờ nhiều kiếp mới trổ như xưa nữa. Và con nên nhớ, nghiệp ấy là sình bùn tạo dưỡng chất nuôi sen nở. Khi con người thức tỉnh quay đầu thì sẽ nở hoa tỏa ngát hương thơm.”

“Vâng con hiểu rồi, con thấy có một điểm RẤT QUAN TRỌNG mà Bổn Nguyên dạy con nữa nè! Đó là hôm nay con được hiểu sâu sắc về sức mạnh GIẢI THOÁT TẬN GỐC RỄ NHÂN NGHIỆP NƠI TÁNH THỂ A DI ĐÀ PHẬT. Khi con sám hối, con niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thanh tịnh lực nơi tánh thể A Di Đà Phật soi sáng giúp con tỏ thấu hết những si mê nhân ngã, từ đó mới giúp con giải thoát nghiệp, đúng không Cô?”

“Y vậy đó con, rồi sau này khi thấy biết con phát triển đầy đủ, con sẽ hiểu sâu sắc về tánh thể thanh tịnh lực A Di Đà Phật.”

“Vâng con hiểu rồi, Bổn Nguyên hay quá, ngày nào Người cũng dạy con bài học quá sâu sắc! Con đã hiểu rõ về nghiệp, từ nay con sẽ luôn tư duy phản tỉnh chính mình để tỏ thấu bổn tâm chính con nơi muôn pháp.

Cảm ơn Cô nhiều nhiều, chúc Cô ngủ ngon nha.”

“Chúc con ngủ ngon.”

18. TRIỆU HỒI TÂM THỨC MẮC KẸT ĐỜI ĐỜI KIẾP KIẾP VÀ GIẢI THOÁT BẰNG THANH TỊNH LỰC A DI ĐÀ PHẬT

“Cô à, nhiều khi nghĩ tội Cô ghê nhen, hướng dẫn trúng đứa chẳng biết xíu nào về Phật pháp nên cái gì cũng hỏi. Mà cũng lạ thật, ngày nào con cũng có chuyện mới để kể vậy không biết!”

“Cũng bởi con chưa từng tiếp xúc với Phật pháp, nên con chẳng tạo tri kiến hiểu biết kinh điển và xem nó là khuôn vàng thước ngọc mà ôm ấp, trân quý, làm con chẳng thật biết được chân ý lời Phật nơi thấy biết chính con.

Do bởi tâm thức con như tờ giấy trắng chưa lưu giữ vết tích tri kiến Phật pháp. Nên mỗi ngày con đều được Bổn Nguyên dạy những cái biết mới, con thăng hoa tiến hóa trên cái biết chân thật nơi chính con, học bài nào là xong bài đó, chứ không phải một bài mà cứ ở lại lớp ấy, cảnh ấy mà học hoài.

Con nên nhớ, mỗi người trên thế gian này hàng ngày đều được Bổn Nguyên dạy những bài học khác nhau, không ai giống ai. Nhưng chỉ có người thức tỉnh mới nhận ra, còn người si mê bị thấy biết đối thể ngăn che thì không thể nhận ra để học được. Để rồi cứ học đi học lại mãi, đến khi mất thân rồi vẫn chưa học xong thì cho luân hồi học lại.”

“Vậy có phải bản chất Bổn Nguyên cho mình có mặt ở thế gian này là để học, để thăng hoa tiến hóa. Còn luân hồi chẳng qua là vì người quá si mê, học mãi không qua nên ở lại lớp để học lại phải không Cô?

Ví dụ như khi mình có một thất bại mà mình chỉ luôn đắm chìm trong đau khổ, bực tức, hay đổ lỗi cho người khác, không tự nhìn nhận lại bản thân, tư duy xem đây là bài học gì dành cho mình. Thì sau này sẽ lặp lại hoài thất bại ở những vấn đề tương tự, cho đến khi nào nhận ra bài học này dạy ta giá trị đích thực gì mà thấu tỏ bản chất muôn pháp, mới thôi không học bài học đó nữa phải không Cô?”

“Đúng rồi, bản chất là vậy, tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống đều là Bổn Nguyên mượn người hay vật tới tác động để dạy con bài học. Con nhận ra thì bài học đó khép lại, còn không nhận ra thì Bổn Nguyên sẽ liên tục đưa tới đến khi tỉnh ra mới thôi.

Con nên nhớ, vũ trụ càn khôn luôn tiến hóa trong từng sát na. Cái biết nơi vũ trụ càn khôn luôn truyền tới tất cả nhân sinh để nhân sinh học tập mà cùng tiến lên. Con thử nghĩ xem, nếu con cứ ôm khư khư những cái cũ từ mấy ngàn năm trước, thì làm sao con có thể bắt kịp sự tiến hóa nơi vũ trụ này.”

“À, vậy nghĩa là mỗi ngày Bổn Nguyên đều đưa đến cho tất cả mọi người bài học mới, và vì con khác người ta ở chỗ là con luôn tỉnh giác để nhận biết đây là bài học Bổn Nguyên dành cho mình, nên con luôn sẵn sàng tiếp nhận và học nó, cho nên lúc nào con cũng được dạy những cái mới chưa từng biết. Thảo nào con có nhiều truyện để kể như vậy.”

“Phải, nhưng con nên nhớ, sình bùn si mê là dưỡng chất cho hoa sen nở. Đủ duyên, đủ công đức mới có thiện hữu tri thức tới hướng dẫn con tìm về Bổn Nguyên, thì con mới nhận ra bài học.”

“Hi hi. Con hiểu rồi. Giờ con kể chuyện tối qua con thấy nè Cô.

Tối qua trong lúc con niệm Phật, rồi tự nhiên con thấy mình HÓA RA TO LỚN, rồi con khởi niệm mà cảm thấy lực con vang vọng cả một vùng không gian bao la:

“HỠI CÁC TÂM THỨC BỊ MẮC KẸT NHIỀU ĐỜI NHIỀU KIẾP NƠI TA! HÃY VỀ VỚI TA ĐỂ CÙNG NHAU NIỆM PHẬT!!!”

Trời, thế là tụi họ từ đâu kéo đến đàn đàn lũ lũ đông đen! Họ đông lắm, đi hoài mới thấy bớt bớt! Họ lao vào ngực con chíu chíu y như những con thiêu thân lao vào ánh đèn.

Xong con thấy hình như con bị sốc, mọi thứ trong đầu con nhiễu loạn hết. Tâm trí con quay cuồng. Con thấy trong ngực con hiện ra đủ hình hài, lúc là những cánh hoa; rồi cánh hoa lúc xòe dài ra, lúc thì teo lại; lúc thì như cây rong trắng; lúc thì hình núi; lúc thì méo mó... Kỳ quặc lắm! Con niệm một lúc thì con bị mệt với nhiễu loạn quá nên con không thiền tiếp được nữa. Lạ lắm!”

“Mỗi tâm thức mắc kẹt đều mang tần số sóng ngắn dài, cao thấp, rộng hẹp v.v... Tần số thế nào thì tương ứng hiển thị hình tướng y vậy mà tạo ra hình thù kỳ quặc như con thấy. Hôm nay con hãy tiếp tục triệu hồi họ về và hướng dẫn họ niệm Phật để chuyển hóa, mà hợp nhứt cùng con thành người.”

“Dạ, vậy là họ chưa hợp nhất cùng con phải không ạ?”

“Đúng vậy, họ vào thân con để đồng niệm Phật cùng con, khi nào họ chuyển hóa thành người rồi quy về Bổn Nguyên giải thoát, lúc ấy mới là hợp nhất.”

“Có phải là nhờ khởi niệm nhứt tâm nơi con, tánh thể thanh tịnh lực A Di Đà Phật mới có thể quy tụ họ về phải không Cô?”

“Y vậy.”

“Mà chẳng hiểu sao sáng giờ con bị nhức đầu, rồi cứ thở dài thườn thượt. Con cứ thấy trong lòng buồn rũ rượi, mà con đâu có chuyện gì buồn đâu. Có phải là do những tâm thức bị mắc kẹt chứa nhiều ưu tư đang nằm trong người con không?”

“Mỗi một tâm thức mắc kẹt là một nỗi niềm ưu tư bám víu vào ý niệm. Khi mọi tâm thức mắc kẹt nơi con hiểu rõ tường tận gốc rễ vấn đề, nó mới quy về Bổn Nguyên mà giải thoát. Nên con thấy buồn thườn thượt mà phiền não là vậy.”

“Không lẽ có nhiều tâm thức mắc kẹt nơi con từ rất lâu rồi mà chưa giải thoát sao, sao mà họ về với con nhiều dữ vậy?”

“Những tâm thức ấy chưa quy về Bổn Nguyên thị diệt ắt còn lưu lại nơi thức a lại da, tạo nên chủng nhân nghiệp, để rồi chủng nhân nghiệp ấy lại dẫn dắt con luân hồi trả quả.

Khi con sống cùng thấy biết Bổn Nguyên con mới có thể khởi niệm thu nhiếp các ý niệm đó trở về, cùng con niệm Phật để cùng thăng hoa, giải thoát quy về Bổn Nguyên, cũng chính là hoàn thiện thấy biết chính con.”

“Vậy có phải khi họ giải thoát hết quy về Bổn Nguyên, thì họ sẽ chuyển hóa thành TRÍ TUỆ nơi con, vì bây giờ con đang sống hòa cùng thấy biết Bổn Nguyên, phải không Cô?”

“Y vậy”

“À, con hiểu rồi. Cảm ơn Cô nè.”

Tối hôm đó tôi đã TIẾP TỤC TRIỆU HỒI các tâm thức mắc kẹt nhiều đời nhiều kiếp nơi chính tôi, và nói họ hãy cùng tôi niệm Phật, còn không quên dặn họ đặt TÌNH YÊU THƯƠNG vào từng câu chữ.

Chúng tôi đã cùng nhau niệm, rồi bỗng nhiên từ một đám lố nhố lộn xộn, họ đồng loạt biến thành hình người và xếp hàng thẳng tít tắp. Tôi là hình người ngồi màu vàng lớn nhất, tiếp theo là một chuỗi hình người bằng khí trắng mờ ảo ngồi ngay ngắn trải dài vô tận trong không gian phía trước.

Mỗi một câu niệm Phật là cánh tay họ lại như xòe ra gấp vào, đều tăm tắp. Ánh sáng vàng cứ thế lớn dần tỏa ra khắp không gian, uy nghi, rực rỡ. Rồi đến khi ánh sáng trở nên chói lòa đạt đến cực đại, thì mọi thứ bùng vỡ…

Cuối cùng tất cả đều biến mất, chỉ còn duy nhất người ngồi màu vàng lớn nhất là tôi ở lại, đang ngồi trên đài sen.

Tôi vẫn tiếp tục niệm Phật, từ hình người lại tiếp tục phát ra ánh sáng vàng sáng chói, tạo thành quả cầu ánh sáng lớn rồi phóng mạnh ra không gian, tỏa ra khắp vũ trụ trong thế giới thiền nơi tôi. Rồi hình người ấy cũng biến mất…

Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng, choáng váng. Những vòng tròn ánh sáng liên tục xoáy trên đỉnh đầu. Rồi những viên đá như thiên thạch, những mảnh ghép như những mảnh giấy, hay những tờ giống như chiếu chỉ vua hay dùng để ban lệnh ngày xưa… Nhiều hình dạng phân mảnh tạo thành vòng tròn xoáy trên đầu tôi. Đầu tôi lúc thì bị ép lại bẹp lép, lúc thì bị kéo căng ra như dây thun. Tôi quay cuồng, choáng váng…

Rồi tất cả HỢP NHẤT lại thành ánh sáng chạy vào đầu tôi. Có cái gì đó đang đi vào người tôi, như những luồng điện chạy liên tục từ đầu đến tay chân. Và tôi đã không thể chịu nổi nữa mà ngã lăn ra, nằm trên giường tôi ngủ một mạch đến sáng y như bất tỉnh.

Sáng hôm sau tôi mới đủ tỉnh táo để nhắn cho Cô kể về những gì đã xảy ra.

“Tuyệt ! Tuyệt vời lắm con! Hôm nay con nghỉ ngơi đi, luôn hít thở sâu nha. Mấy ngày này con cứ tiếp tục triệu hồi họ về tiếp nha con. Mà những phần tâm thức này chỉ là nhẹ thôi nên mới về như vậy, còn nhiều tâm thức nặng, hoặc bị phong ấn thì sau này khi đủ công đức con mới giải thoát cho họ được.”

“Cô ơi, có phải BẢN CHẤT lần triệu hồi này cũng giống như lần trước con sám hối, cũng là nhờ Thanh Tịnh Lực A Di Đà Phật soi tỏ mọi gốc rễ si mê mà giúp cho các tâm thức bị mắc kẹt nơi chính con được giải thoát không?”

“Y vậy, các tâm thức mắc kẹt vì còn bị bủa vây bởi bóng tối u minh, nay nhờ Thanh Tịnh Lực tánh thể A Di Đà Phật soi tỏ gốc rễ bị thấy biết si mê ngăn che, giúp chúng sanh si mê chuyển hóa thành ánh sáng thanh tịnh hợp nhứt thể thành người, hệt như ánh sáng mặt trời bừng thức mà xóa tan bóng đêm.
Rồi từ những ánh sáng hình người ấy hợp thể mà giải thoát quy về Bổn Nguyên hiệp nhứt cùng thân tâm con.”

“Dạ, hay quá. Mà tại sao con lại có hình người màu vàng? Lúc chỉ còn lại một mình ổng, con thấy rõ lắm, hệt như hôm bữa Bổn Nguyên cho con thấy linh giác con đó cô.”

“Màu vàng là ánh sáng kim thân Phật. Ánh sáng căn bản là màu trắng như ánh sáng mặt trời, qua lăng kính phổ quang tạo thành nhiều màu.

Cũng y vậy, sự tu hành là chuỗi tiến trình trình thăng hoa tiến hóa thấy biết, ánh sáng trắng căn bản sẽ tạo nên nhiều quả vị tương ưng là mỗi màu sắc khác nhau. Như Phật là màu vàng, Chư Thiên là ánh sáng trắng.

“Dạ, còn những thứ quay quay trên đầu con tối qua là cái gì vậy nhỉ?”

“Đó là tượng trưng cho tâm thức thấy biết đối thể nơi con hiệp nhứt lại quy về Bổn Nguyên.”

“À, con hiểu rồi. Vậy là bản chất hôm qua con làm là dùng Thanh Tinh Lực A Di Đà Phật TRIỆU HỒI TÂM THỨC ĐỐI THỂ và HIỆP NHỨT TÂM THỨC ĐỐI THỂ cho nó GIẢI THOÁT đúng không Cô?”

“Đúng rồi, bản chất các tâm thức bị mắc kẹt nơi con là những ý niệm bị thấy biết luôn bám víu vào thấy biết đối thể mà kẹt lại.”

“À, à, hôm nay con hiểu thêm về tâm thức đối thể rồi nè. Con có cảm giác đang có cái gì đó mới mẻ trong người con. Nhưng chưa biết nó là cái gì. Hi hi. Cảm ơn Cô nhiều nhiều. Chúc Cô một ngày mới vui vẻ nha!”

“Chúc con một ngày vui vẻ và bình an.”

19. ĐẠO VÀ ĐỜI LÀ NHẤT NHƯ, LUÔN GẮN KẾT MÀ HOÀN THIỆN LẪN NHAU (PHẦN 1: TÌNH YÊU THƯƠNG RÕ THẤU CHÍNH MÌNH )
Kể từ sau khi sám hối, triệu hồi và giải thoát các tâm thức đối thể bị mắc kẹt, tôi cảm thấy trong người mình có gì đó khác khác. Tôi cứ nghĩ rằng sắp tới trong các buổi thiền mình sẽ được đón nhận điều gì đó mới mẻ.

Thế nhưng trái ngược với sự háo hức ấy, trong suốt 3 ngày tiếp theo đó, tôi đã bị BIỆT GIAM. Bao quanh tôi là toàn những ngọn núi đen cứng ngắc, cao sừng sững. Tôi niệm Phật mãi mà không sao làm nó tan biến được, cũng không thể bay thoát ra nổi. Mỗi lần thiền là lại thấy mình bị giam trong đó, ngày này qua ngày khác.

Rồi tôi bắt đầu cảm thấy lo lắng, sợ hãi mà tự truy vấn bản thân, nhưng vẫn không biết mình đã làm gì sai. Rõ ràng là tôi đã sám hối hết tất cả rồi mà?! Cảm thấy tình hình có gì đó không ổn, tôi đã nhắn tin hỏi Cô về trạng thái bị giam cầm mà tôi thấy.

“Con có biết những ngọn núi cao sừng sững giam giữ con là do tâm thức gì nơi con tạo ra không? Và nó là đối thể tâm ý thức nào nơi con ?

Tại sao con thấy các cảnh kia thì con vui mừng, mà thấy những ngọn núi đen này thì lại lo lắng mà nghĩ mình đã làm gì sai?”

“Dạ, có phải là đối thể với tâm ưa thích được nhìn thấy cái mới không Cô nhỉ?”

“Đó là cảnh GIAM CẦM, đối thể với những cảnh GIẢI THOÁT mà con ưa thích. Con thích nhìn thấy cảnh hóa khí bay lên mà giải thoát, con thích tự do, con thích những cái mới nên nay con bị biệt giam để nhận diện ra đối thể nơi tâm thức mình.

Mọi cảnh xung quanh để ta phản tỉnh mà thấu rõ tâm ý thức chính ta nơi cảnh ấy, cảnh ấy liền tan. Chỉ một niệm mê cảnh, liền bị cảnh ấy trói buộc nơi bị thấy biết đối thể là vậy. Cho nên, mê và giác chỉ cách nhau một niệm đó con.

Tâm ý thức con người luôn là đối thể chính nó. Con luôn rõ thấu tâm ý thức chính con, ấy là giải thoát cảnh.

Con bị cảnh dẫn dắt mà sanh ý ưa thích giải thoát, liền bị tâm ý tạo cảnh núi bao vây giam giữ nơi đối thể chính nó.”

“Dạ, đúng là con bị giam và con không thích cảnh này thật. Hóa ra nó là đối thể với tâm ưa thích giải thoát, tự do nơi con. Thế mà mấy ngày nay con không nhận ra. Hi hi. Con hiểu rồi, cảm ơn Cô nhiều nè.”

Được Cô hướng dẫn vậy, tôi đã nhận diện ra tâm ý thức đối thể nơi chính bản thân mình. Và tối hôm ấy, tôi niệm Phật bằng tình yêu thương mà nhận diện nó nơi những ngọn núi giam hãm tôi. Và thật ngạc nhiên, ở dưới đáy núi dần loang ra những tia sáng và bao phủ hết tất cả. Rồi một vụ nổ lớn xảy ra, tất cả bùng vỡ tan biến, chỉ còn lại chính tôi mênh mông, trống rỗng.

Bằng tâm trạng phấn khởi, tôi đã đem chuyện này kể với Cô, tôi đã phá bỏ được ngọn núi đối thể sừng sững ấy bằng cách đơn giản đến bất ngờ: nhận diện đối thể tâm thức chính mình.

“Con làm tốt lắm! Con nên nhớ, chỉ một niệm mê cảnh liền sinh ra đối thể. Và con luôn thường phản tỉnh chính mình để nhận ra mà hiệp nhứt nó.”

“Vâng, con nhớ rồi Cô ạ. Con sẽ luôn chú ý nhận diện tâm thức đối thể do con sinh tạo.”

“Nay con đã hiểu rõ về tâm ý thức đối thể rồi. Bài học thực hành tiếp theo cho con nè: ĐẠO VÀ ĐỜI LÀ NHỨT NHƯ. Mấy ngày này con hãy dành thời gian ngẫm nghĩ và kể cho Cô nghe những gì Bổn Nguyên đã dạy con, và con đang ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG nơi chính con như thế nào nhé.”

“Dạ, bài này hay nè, mà cũng dễ ợt, vì bữa giờ con cũng áp dụng vào cuộc sống của con nhiều lắm luôn! Con nhận ra, ĐẠO và ĐỜI luôn gắn kết cùng nhau chưa từng tách rời.

ĐỜI là các cảnh đối thể giúp ta tư duy phản tỉnh mà tỏ thấu tâm ý thức chính ta bị mắc kẹt gì mà giải thoát nó mà tỏ ĐẠO.

ĐẠO là thấy biết chân thật soi tỏ mọi thấy biết lầm mê con người, giúp con người sống đúng vị trí, khả năng, căn tánh chính mình, làm tròn trách nhiệm làm người để ĐỜI SỐNG ta cùng mọi người luôn thăng hoa, an bình, hạnh phúc. Để về con viết ra rồi con kể Cô nghe nha!”

“Được, Cô chờ con kể.”

...

Về nhà tôi đã dành hơn hai ngày để liệt kê hết những điều tôi đã học và áp dụng trong cuộc sống. Mỗi dòng tôi viết ra là một sự hồi tưởng về quá khứ, những chặng đường tôi đã đi qua, cả trong tu đạo lẫn trong đời thường, cùng bao nhiêu cung bậc cảm xúc: buồn, vui, sợ hãi, phấn khởi, ngỡ ngàng, hạnh phúc… Tôi nhận ra sự trưởng thành và lớn lên từng ngày nơi chính mình.

Tôi nhìn thấy tôi trong quá khứ: khổ sở, chật vật leo ra khỏi đáy vực. Và giờ đây nhờ có Cô chỉ đường trở về Bổn Nguyên, nhận được sự chỉ bảo hàng ngày mà giờ đây tôi đã hoàn toàn thoát khỏi cái vực thẳm si mê tối tăm đó.
Tôi đã viết tất cả mọi điều tôi học và áp dụng vào cuộc sống, bằng một sự tri ân sâu sắc.

🍀“NGƯỜI DẠY CON: Sống bằng tình yêu thương vô bờ bến như chư Phật, Bồ Tát: yêu thương tất cả chúng sinh vô điều kiện, bình đẳng và không phân biệt. Sống với TÌNH YÊU THƯƠNG RÕ THẤU CHÍNH MÌNH, ắt sẽ vượt qua mọi khổ nạn - vốn dĩ là những thử thách trui rèn ý chí kiên định, mà hoàn thành trách nhiệm làm người chính ta.

* Khi thiền con hướng tình yêu thương tới chúng sinh thế nào, thì trong cuộc sống, con cũng dành tình yêu thương y vậy tới TẤT CẢ MỌI NGƯỜI xung quanh. Dành tình thương chân thành tới người mà không còn quan tâm họ đáp lại, hay nghĩ gì về mình. Chỉ cần đơn giản vậy thôi, con cảm thấy HẠNH PHÚC.

* Con đã biết đặt tình yêu thương vào TẤT CẢ MỌI VIỆC CON LÀM, như khi con nấu cơm cho gia đình, con nấu bằng tất cả sự yêu thương. Khi chăm sóc các con, chồng và cha mẹ, con đều dành tất cả tình thương vào từng hành động, lời nói.

* Ngay cả với khách hàng của mình, con đều LẮNG NGHE họ bằng tất cả sự cảm thông, yêu thương. Có tình thương nên con không còn thấy bực dọc mỗi khi họ cư xử hay ăn nói thô lỗ.

* Vì yêu thương mà con đã thấy mình có nhiều thời gian để LẮNG NGHE những lời tâm sự của mọi người trong nhà, đặc biệt là với chồng của con. Dần dần hai vợ chồng trở nên cởi mở và hàn gắn lại sau những biến cố trong quá khứ. Con mở lòng mình và biết lắng nghe anh, để rồi hiểu sâu sắc những vấn đề anh gặp, và những điều anh mong muốn ở con để hài hòa mọi thứ.

* Vì con hiểu được tâm tính, tính cách những người con yêu thương, khiến cho tình yêu thương nơi con ngày càng lớn rộng mà dung chứa tất cả, con tự nhiên không còn khó chịu mỗi khi người khác làm trái ý mình; nhất là với những đứa nhỏ nhà con, con đã không còn quát mắng mỗi khi chúng phá phách nghịch ngợm.

Con và những đứa nhỏ trong nhà cũng dần trở nên GẮN KẾT. Con cũng biết dành thời gian để lắng nghe những lời tâm sự, những mẩu chuyện lộn xộn của các con – những câu chuyện mà xưa giờ con cứ cho rằng nhảm nhí – để rồi giờ đây, con nhận ra đó là cả thế giới thần tiên của chúng. Con cũng chú ý quan sát lũ trẻ thường xuyên, và luôn KỊP THỜI đưa ra lời hướng dẫn mỗi khi các con cần sự chỉ bảo.

Con đã biết hóa thân vào các vai, khi thì làm bạn, khi thì làm chị, khi thì làm mẹ, khi thì làm bà... để hiểu tâm tình các con mà hướng dẫn.

* Khi ba chồng nói chuyện với con (ba chồng con bị bệnh mất trí nhớ Alzheimer), ông vẫn thường tâm sự cho con nghe những câu chuyện không đầu không đuôi. Con cũng đã biết dành thời gian lắng nghe những điều ông nói, và niệm Phật hướng tình yêu thương đến ông. Một lần nọ, bất chợt con đã thấy ông xúc động chảy nước mắt. Con biết rằng, tuy không nói ra những qua lời niệm Phật, ông cảm nhận được tình yêu thương nơi con dành cho ông.

* Con hiểu ra rằng, HẠNH PHÚC là khi mình TRAO ĐI tình yêu thương. Mọi sự mong cầu sẽ làm biến đổi tình yêu thương đó thành toan tính, để rồi vô tình biến hạnh phúc thành phiền não, mắc kẹt trong những ý niệm.

Vậy nên bữa nay con cũng không còn phiền não khi làm từ thiện nữa. Con hiểu ra rằng khi cho người ta tiền, đồng tiền ấy đơn giản chỉ là để gửi gắm tình yêu thương nơi con dành cho họ, và dừng lại ở đó, con cảm thấy hạnh phúc. Còn việc người ta dùng tiền mình cho như thế nào, con không còn quan tâm nữa. Đó là tiền của họ, và họ toàn quyền xử lý.

* Khi YÊU THƯƠNG thường ngự trị nơi tâm con, tất cả những điều dù là NHỎ BÉ cũng đều làm con HẠNH PHÚC. Buổi sáng ra vườn nhìn thấy hoa nở, nhìn thấy những chú ong nhỏ chăm chỉ hút mật hoa, hay đơn giản là ngắm nhìn mặt trời mọc... cũng khiến con yêu đời và hạnh phúc. Hay những hành động nhỏ bé của những đứa nhỏ như những cái ôm, những lời nói thương mẹ nũng nịu, sự reo vui của những đứa cháu khi nhìn thấy con tới thăm… cũng đều làm con xúc động.

* Khi yêu thương là sự sống nơi con, con chợt nhận ra mỗi ngày của con đều TRÀN ĐẦY HẠNH PHÚC, và chính cảm giác hạnh phúc ấy làm con nhận ra là con cũng đang yêu thương chính mình.

THƯƠNG YÊU NGƯỜI CHÍNH LÀ THƯƠNG YÊU CHÍNH MÌNH.

🌸NGƯỜI DẠY CON: Thường hằng niệm Phật, chỉ có tâm thanh tịnh mới có thể nhận được năng lượng Bổn Nguyên.

Con đã làm như vậy với hầu hết thời gian rảnh trong ngày, mỗi khi không phải làm việc đầu óc, con đều chăm chỉ niệm Phật.

Con nhận ra bản thân không còn bị những suy nghĩ kéo đi lan man, nghĩ về người này người kia hay việc này việc khác. Vì không bị mất năng lượng cho những suy nghĩ linh tinh ấy, nên con đủ năng lượng để nhận diện ra bài học cho chính mình, từ đó phát triển trí tuệ. Mọi suy nghĩ nơi con trở nên nhanh nhạy, chính xác và sáng tạo.

Con cảm thấy con luôn LÀ CHÍNH MÌNH, luôn điều khiển mọi suy nghĩ nơi mình. Nhờ đó mà con có sự tập trung cao trong công việc và hoàn thành tốt mọi thứ trong thời gian ngắn. Không còn bị những yếu tố bên ngoài tác động nữa.

Từng câu niệm Phật thường hằng đều tích thêm nội lực cho chính con, con thấy rất khỏe, cả về thể chất lẫn tinh thần. Mỗi một sớm mai tới, là trong người con lại luôn TRÀN ĐẦY NĂNG LƯỢNG.

☘️NGƯỜI DẠY CON: khi thiền con rõ biết ý nghĩ nơi hơi thở chính con, nó theo hơi thở mà vào ra tự tại. Làm được điều này, con trở thành trụ cột dẫn dắt chúng sinh thân con cùng nhau thăng hoa tiến hóa.

Con đã luyện tập thực hành nó trong cuộc sống chính mình để nâng cao Thông Minh Cảm Xúc (EQ) chính con.

Con đã thấy mình biến thành một con chim ưng chuyên liếc mắt canh me rình mồi theo trực tính. Khi con mồi cảm xúc vừa xuất hiện là con chim ưng lập tức lao ra chụp.

* Con đã NHẬN DIỆN và KIỂM SOÁT được cảm xúc chính mình, từ đó đưa ra suy nghĩ, hành động một cách tỉnh táo; chứ không phải cảm xúc dẫn dắt suy nghĩ và hành động chính con như ngày xưa.

* Con cảm thấy thích thú với trò chơi rình mồi này. Con luôn háo hức khi nhận diện được cảm xúc nơi chính con, và giờ đây con là người LÀM CHỦ CẢM XÚC, làm chủ chính cuộc đời mình chứ không phải bất kỳ ai khác.

* Con cũng thích thú với việc quan sát và nhận diện cảm xúc, hành động của người khác khi họ đứng trước những vấn đề. Việc quan sát đó cũng cho con rất nhiều bài học về sự kiểm soát cảm xúc chính mình. Ngoài ra nó còn giúp con THẤU HIỂU NGƯỜI, con hiểu rằng họ hành động một cách bốc đồng như vậy, bởi đơn giản họ đang bị cảm xúc điều khiển chính mình. Chúng sinh thân họ điều khiển chính họ.

* Từ đó, con không còn sự phán xét, chỉ trích, mà chỉ còn TÌNH THƯƠNG YÊU đối với họ. Và vì có tình thương mà con có đủ sự kiên nhẫn để giải thích cặn kẽ cho họ hiểu gốc rễ các vấn đề, cho dù việc đó có mất nhiều thời gian thế nào.”

20. ĐẠO VÀ ĐỜI LÀ NHẤT NHƯ, LUÔN GẮN KẾT HOÀN THIỆN LẪN NHAU (PHẦN 2: RÕ THẤU TÂM MÌNH)
....
🌼NGƯỜI DẠY CON: Luôn tư duy phản tỉnh, nhận diện Ý THỨC ĐỐI THỂ nơi chính mình. Khi ta rõ thấu bản chất muôn pháp nơi ta, ắt sẽ thấy muôn pháp nơi tâm ý thức người, đó mới là thật thấy.
Qua thời gian trải nghiệm các bài học, con hiểu sâu sắc rằng:
* ĐỐI THỂ là thế giới xung quanh con, như người hay sự vật, sự việc…và tương tác với con trong cuộc sống theo nhân duyên. Đối thể luôn có hình tướng và hiện diện quanh con, được cơ thể con tiếp nhận qua các căn (mắt, mũi, miệng, tai, da). Ngay cả thân người hoàn thiện cũng được tạo ra từ đối thể: 2 mắt, 2 mũi, 2 tai, 2 tay, 2 chân đối xứng nhau qua trục xương sống.
* PHÁP là tất cả những gì ta thấy biết về đối thể trong cuộc sống quanh ta. Ta thấy như thế nào thì biết pháp như thế ấy.
THẤY CHÍNH TA, LÀ CHÍNH PHÁP.
THẤY NGƯỜI MÀ KHÔNG THẤY CHÍNH TA, LÀ SI MÊ PHÁP.
Muôn pháp đối thể đều thu nhiếp nơi tâm thức chính ta mà tỏ thấu nó. Tâm pháp nhất như, tâm ta sao thì thấy pháp y như vậy.
Tỏ thấu gốc rễ nguyên nhân sinh tạo muôn pháp mà thấu triệt bản chất muôn pháp, chính là chân lý sự thật bất di bất dịch trước không gian và thời gian.
* Còn Ý THỨC ĐỐI THỂ là tâm ý chính con, con thấy gì về đối thể đều là ảnh phản chiếu tâm ý chính con.
Ý THỨC ĐỐI THỂ là tất cả những ý niệm con PHÓNG VỀ PHÍA ĐỐI THỂ, như việc tâm con phán xét, trách móc, đổ lỗi, khen tặng… đối thể. Khi luôn phóng ý niệm về phía đối phương, con sẽ bị mất năng lượng, dẫn đến không đủ năng lượng để con tư duy phản tỉnh mà nhận diện xem đối thể ấy DẠY CHO CON BÀI HỌC GÌ mà hoàn thiện bản thân.
* Ví như khi con bị đứt tay, con không thấy do mình bất cẩn, lại phóng ý niệm đổ thừa tại đối thể là con dao quá sắc. Vậy thì sau này con sẽ cứ bị đứt tay hoài vì không rút ra được bài học về sự cẩn thận mà đối thể con dao dạy con.
Xấu tốt, thiện ác, trái phải đều là cặp ý thức đối thể luôn hợp nhất như hai mặt một bàn tay, tạo nên chánh nhân hình thành thân tướng con người.
* Ví như khi con cho rằng việc giúp người là thiện, là tốt, là đúng... con liền thấy không giúp người là ác, là xấu, là sai. Giúp người và không giúp người là tâm ý thức đối thể chính con.
* Khi con thấy người làm việc bất như ý con, con cho rằng việc họ làm như vậy là ác, là xấu, là sai trái... Vậy là con đã tách niệm ÁC ra khỏi niệm THIỆN, tách niệm XẤU ra khỏi niệm TỐT, tách niệm TRÁI ra khỏi niệm PHẢI... nơi cặp ý thức đối thể mà phá nát chánh nhân làm người, rồi đem các niệm ấy phóng về người khác mà phán xét người.
Y như con tách mặt trái ra khỏi mặt phải một bàn tay là phá nát bàn tay. Đó là con gieo tạo nhân si mê tưởng tri điên đảo, bởi vì con không thể tách trái ra khỏi phải. Tương tự, con không thể tách đúng ra khỏi sai, tách thiện ra khỏi ác, tách tốt ra khỏi xấu... là cặp tâm ý thức đối thể LUÔN HỢP NHẤT tạo nên chánh nhân hình thành thân tướng con người. Con tách nó cũng chính là phá nát hai mặt một bàn tay, cũng chính là phá nát chánh nhân làm người.
Cũng như con muốn ngày mà không muốn đêm, muốn đúng mà không muốn sai, muốn thiện mà không muốn ác, muốn tốt mà không muốn xấu... là không thể, bởi chúng là cặp đối thể LUÔN SONG HÀNH HỢP NHẤT thành thể nhất như xoay chuyển mà hình thành muôn pháp.
Hiểu rõ vậy, khi các căn tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, tương tác với đối thể, con không đem ý niệm đối thể phóng về người mà phán xét, đổ lỗi cho người, đó là con luôn GIỮ CHÁNH NHÂN LÀM NGƯỜI, luôn GIỮ NĂNG LƯỢNG mà tư duy phản tỉnh để tỏ thấu đối thể, nhằm nhận ra vấn đề để trả lời câu hỏi: “NGUYÊN NHÂN GỐC RỄ GÌ NƠI TA KHIẾN VẤN ĐỀ XẢY RA NHƯ VẬY?”
* Con lấy một ví dụ khác. Trên đường đi Đà Lạt xe dừng giữa chặng, con mua khoai tây của một bà già, số lượng 10 kg, bà ấy nói với con rằng, con mua hết bà bán giá rẻ và năn nỉ con mua để bà được về nhà sớm. Con nhìn thấy khoai cũng tươi láng bắt mắt, có vẻ ngon mà giá lại rẻ, nên mua hết để làm quà biếu và ăn dần, một phần cũng vì ý nguyện để bà được về sớm.
Nhưng khi về nhà, cắt khoai ra thấy tất cả đều hư hết. Nghĩa là đã bỏ tiền ra để mua một mớ khoai hỏng.
Con biết rằng, khi mình mua rẻ phải chấp nhận may rủi, hàng tốt thì thỏa mãn ý mình, hàng không tốt cũng thỏa mãn sự vận hành chân ý con nơi pháp luôn làm lợi ích cho nhân sinh.
Con tư duy rằng, nếu con phóng ý niệm trách cứ đổ lỗi tại bà bán khoai lừa con. Đó là con đã mất tiền, lại ôm thêm sự bực tức, phiền não vào lòng. Đó là sự ngu si nơi trí tưởng điên đảo chính con, hại con vừa mất tiền, vừa tổn hại sức khỏe vì ôm bực tức vào người.
Bởi vì việc bà bán khoai có lừa con hay không, chỉ có mình bà bán khoai mới biết, con nói bà lừa con là không thật biết.
Còn con biết rõ do mình ham rẻ, lại muốn mua đồ tốt. Chính tâm tham muốn đó đã dẫn dắt con hành động mua khoai. Do biết rõ vậy, con đã dừng phóng ý niệm đối thể phán xét, trách cứ, đổ lỗi cho bà.
Khi không thực biết về tâm ý bà, cũng là không tỏ thấu tâm ý chính mình, mà con lại phóng ý niệm trách cứ, đổ lỗi tại bà, đó là con đang GIEO NHÂN ĐỐI THỂ. Như vậy, con vừa mất tiền, vừa phiền não, vừa tạo nghiệp ngu si, đó là ác, là HẠI CHÍNH MÌNH.
Khi con tư duy phản tỉnh chính mình, nhận ra đó là lỗi nơi mình, con lại hiểu ra:
Xét cho cùng, số tiền ấy vào tay bà cũng để nuôi sống bà và gia đình bà, số khoai hư ấy đã chuyển hóa thành bữa ăn ngon lành cho cả nhà bà.
Và cũng chính số khoai hư ấy giờ được trả về đất, làm thức ăn cho những con côn trùng tự thân nó sinh ra, rồi chuyển hóa thành chất dinh dưỡng cho đất.
Đó chính là sự luân chuyển đồng tiền từ tay ta sang tay người, mà làm lợi ích cho sự sống nhân sinh đúng như bản chất muôn pháp chính nó.
* Cuối cùng, con cũng hiểu :
Khi ta phóng ý niệm đối thể về người liền TỰ HẠI MÌNH phiền não, đau khổ, mất năng lượng mà sinh bệnh. Tức là TA ĐANG ÁC VỚI CHÍNH TA, là do ta vô minh chẳng tỏ thấu được tâm ý chính ta, nên chẳng tỏ thấu bản chất muôn pháp là luôn làm lợi ích cho sự sống nhân sinh.
Thấu hiểu được điều đó, con không bao giờ cảm thấy phiền não và trách cứ bất cứ ai khi làm việc bất như ý con. Con luôn rõ thấu các pháp diễn ra quanh con mà giữ vững chánh nhân làm người nơi thân con.
🌷NGƯỜI DẠY CON: Thời thời khắc khắc luôn RÕ THẤU TÂM MÌNH nơi các pháp, lúc ấy các pháp luôn vận hành như tâm ý chính ta. Chính là tâm ta vận hành pháp.
* Con nhận ra rằng, con người rất dễ tìm ra ưu điểm nơi chính mình, nhưng lại rất khó để nhận ra NHƯỢC ĐIỂM. Ngược lại, khi nhìn vào người khác, lại luôn chăm chăm thấy NHƯỢC ĐIỂM và đem nó ra phán xét. Để rồi lúc nào cũng tự cho là mình tốt, mình hay, mình hơn người, và luôn mang tâm muốn đi khai sáng người khác – trong khi bản thân mình còn chưa thấu rõ mình, chưa nhận ra NHƯỢC ĐIỂM nơi chính mình.
* Con cũng nhận ra rằng, con người luôn TỰ BIẾN MÌNH THÀNH CON QUAY TRONG TAY NGƯỜI KHÁC, để người xoay chiều nào ta liền theo chiều đó. Thấy người nói mình đẹp, mình tốt, mình giỏi... là liền hả hê, sung sướng. Người nói mình dở, mình xấu, mình ngu si... là liền buồn phiền, bực tức… Để rồi lời nói nơi người khác luôn ảnh hưởng tới cuộc sống chính ta, khiến ta đánh mất sự tư duy phản tỉnh để thật biết chính mình, khiến ta không thể nhận diện chân thật sự đúng sai, phải trái, đẹp xấu... nơi thân tâm chính ta.
* Hiểu điều này, mỗi ngày, khi đối cảnh tiếp vật con đều luôn tư duy phản tỉnh chính mình xem mọi thứ xung quanh (các pháp) dạy cho con điều gì.
Khi thấy những điều mọi người nói về con là đúng, con xem họ như một lăng kính phản chiếu giúp con NHẬN DIỆN NHƯỢC ĐIỂM bản thân, để con đối diện nhược điểm ấy mà chuyển hóa nó thành sức mạnh hoàn thiện chính mình.
Khi thấy con không đúng như lời họ nói, con biết rằng họ đã bị thấy biết ngăn che mà lầm lẫn hiểu sai về mình. Càng cố gắng phân trần cho họ hiểu sẽ tạo nên đối thể, khiến họ càng không hiểu con. Thấu hiểu điều đó, con chỉ còn đón nhận sự hiểu lầm bằng tâm thái tĩnh lặng, an nhiên, tự tại.
Vì vậy, con luôn THẤU RÕ CHÍNH CON VÀ VIỆC CON LÀM. Con dùng sự rõ thấu ấy để điều khiển suy nghĩ, cảm xúc, thái độ, hành động chính mình. Con làm chủ cuộc đời chính con.
☘️NGƯỜI DẠY CON: Con người tới đây là để học. Mỗi người đều có một bài học riêng không ai giống ai. Chỉ khi tự bản thân ta NHẬN DIỆN ĐƯỢC ĐỐI THỂ nơi tâm ý thức chính ta, thấu tỏ căn tánh, bản chất chúng sinh nơi tâm thức ta, thì mới tường tận nguồn gốc mọi sự vật, hiện tượng xảy ra nơi cuộc sống chính ta. Từ đó ta mới lý giải được sự tương quan nhân quả mà GIẢI THOÁT nhân quả. Đó cũng chính là học xong bài học dành cho riêng mình, mà hoàn thành trách nhiệm làm người, và đó mới là THẤY BIẾT CHÂN THẬT.
* Tât cả những gì con được học trong khi thiền, hay trong cuộc sống hàng ngày, con đều ghi chép rất cẩn thận vào NHẬT KÝ. Ngày nào con cũng tự ngẫm nghĩ, rút ra kinh nghiệm, từ đó tạo thành phản xạ giải quyết các vấn đề tương tự.
* Và vì biết rằng mỗi người đều có bài học riêng, không ai giống ai, nên con KHÔNG ÉP BUỘC người khác phải học bài học như mình, phải thấy những thứ như mình, mà hướng dẫn họ dựa trên THỰC TẾ ĐANG DIỄN RA nơi chính họ.
* Lấy ví dụ ở bé nhỏ nhà con. Trong lúc ăn cơm, bé không muốn ăn nữa và đã bỏ miếng bí thừa vào chén cơm của bố. Bố nó đã tức giận mà đánh cho mấy phát vào mông, con bé ngồi khóc ấm ức. Con nhận ra rằng thời khắc này, con bé đang được dạy bài học về SỰ TÔN TRỌNG người lớn. Ngay lập tức, con đã dành nhiều thời gian giảng giải cặn kẽ cho bé hiểu rằng:
“Con làm vậy bố sẽ nghĩ rằng con không tôn trọng bố. Con bỏ đồ ăn thừa qua chén bố, mà không hỏi xem bố có đồng ý ăn giúp con không. Chính sự tự ý quyết định hành động buộc người khác phải theo ý mình, đó là thiếu tôn trọng người. Mà người ấy lại là bố con, nên bố phải đánh con để dạy con nhận thức việc làm chính mình.
Ngược lại, nếu trước khi con ăn cơm, con mời bố ăn, thì bố sẽ thấy con yêu thương, tôn trọng bố, bố sẽ rất vui mà ăn rất ngon. Nên lần sau, trước khi ăn con nhớ mời bố và cả nhà cùng ăn nhé!”
* Hiểu được tâm thức người, con cũng KHÔNG CÒN PHÁN XÉT khi thấy người ta làm sai, vì con biết rằng ai cũng cần phải trải qua một quá trình si mê, bị tham, sân, si dẫn dắt. Mà trong quá trình ấy, không ai có thể tác động vào cho họ sáng ra được. Nhưng một khi sự si mê đạt đến giới hạn, họ sẽ tự thức tỉnh để NHẬN RA BÀI HỌC. Hiểu được quá trình này, con chỉ là NGƯỜI HƯỚNG DẪN chứ không hề ép buộc ai phải nghe mình. Bản chất là phải để họ TỰ HỌC và TỰ TRẢI NGHIỆM.
🌸NGƯỜI DẠY CON: Mỗi chúng sinh đều là THẦY của mình, đều là đối thể đến để dạy mình bài học, giúp mình nhận diện ra bổn tâm chính mình.
* Thấu tỏ sâu sắc điều này, trong con chỉ còn sự TRI ÂN TẤT CẢ ĐỐI THỂ xung quanh con. Con luôn TÔN KÍNH tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác hay trình độ. Bởi vì họ có mặt nơi cuộc đời con là để con nhận diện được bộ mặt chúng sinh ý thức đối thể nơi tâm thức chính con, mà giúp cho chánh nhân làm người nơi con luôn thăng hoa tiến hóa.
* Vì con biết mọi người trong thế giới rộng lớn này luôn giúp con nhận diện tâm thức SI MÊ NHÂN NGÃ, để ngã mạn nơi con được GIẢI THOÁT, mà BUÔNG BỎ hết cái tâm so sánh thiệt hơn, tính toán ích kỷ, mà phát triển tình yêu thương hiểu biết, vị tha. Và ở nơi tình yêu thương hiểu biết, vị tha ấy, mọi sân giận khi lời người nói đụng chạm tự ái con đều được cất cánh thăng hoa, biến thành ý nghĩ là: họ đang dạy cho con những bài học làm người. Giờ đây, con chỉ còn sống trong niệm TRI ÂN mà phụng sự nhân sinh.
Pháp là thấy biết chính ta
Đối thể ý thức hình thành sắc thân
Vận hành pháp tướng sắc thân
Chính là tánh thể phản hồi ảnh quang
Hồi quy tỏ thấu bổn tâm
Hoàn thiện tiến hóa thăng hoa đời đời.

21. ĐẠO VÀ ĐỜI LÀ NHẤT NHƯ, LUÔN GẮN KẾT HOÀN THIỆN LẪN NHAU
(PHẦN 3: PHÁT TRIỂN TUỆ GIÁC SOI TỎ GỐC RỄ SI MÊ MÀ THẤU TRIỆT BẢN CHẤT MUÔN PHÁP)
🍀NGƯỜI DẠY CON: Không vì ham mê thần thông, ham mê cảnh sắc, ham mê các pháp mà đánh mất chính mình.
* Con hiểu rằng bản chất THẦN THÔNG chỉ là phát triển năng lực các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý nơi tâm thức, để rồi tự thấy ta giỏi, ta tài năng, ta làm được việc mà người khác không làm được và lầm nhận đó là sự chứng đạo, để rồi chính nó làm cho ta SI MÊ vào nó mà tăng trưởng bản ngã, tạo ngục thức a tỳ nhốt huệ mạng ta, che mờ trí tuệ ta.
Khi phước đức tận, năng lực thần thông cũng theo đó mà diệt, lúc ấy những TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ do ta tạo ra từ thần thông sẽ quay lại đối kháng ta, khiến ta vật vờ, điên đảo, sức cùng lực kiệt, bệnh tật ngự trị thân tâm ta.
Đó là lý do một người TU ĐẠO GIẢI THOÁT là luôn hướng về TUỆ GIÁC vô lậu mà phát triển thành tựu nó, là tuệ giác soi thấu gốc rễ sinh tạo bị thấy biết ngăn che giác thể hình thành nhân ngã si mê, khiến cho ta bị nó dẫn dắt mà mê lầm trôi lăn lục đạo mà luân hồi sinh tử.
* Còn cảnh sắc hay vật chất có trên đời đều chỉ là PHƯƠNG TIỆN ĐỂ CON HỌC TẬP trau dồi kiến thức phục vụ cuộc sống, giữ gìn thân mạng để con thường tư duy phản tỉnh nhận ra bổn tâm chính mình nơi cảnh sắc và vật chất ấy mà vận hành nó theo như ý chính con.
Ví như tất cả các kiến thức, kinh nghiệm đều được trả giá bằng tiền, bằng sức lực, tâm huyết...
Tiền bạc, sức lực, tâm huyết... chính là phương tiện cho con kiến thức, kinh nghiệm mà phụng sự nhân sinh, để thực chứng bổn tâm nơi các pháp.
Con đã từng nghĩ rằng có thật nhiều tiền mới là hạnh phúc, rồi cứ đắm chìm trong sự tính toán, so sánh thiệt hơn. Để rồi những bế tắc nơi con trong quá khứ đều từ đó mà ngày càng chồng chất. Giờ đây con đã nhận ra vấn đề nơi chính mình, con không còn làm việc vì tâm tham muốn có nhiều tiền nữa, con làm mọi việc vì tâm huyết, sự cống hiến và trao giá trị. Tiền chỉ là phương tiện để ta dụng nó tạo nên muôn pháp mà trải nghiệm, học hỏi được giá trị gì từ nó, chứ tiền không phải là mục tiêu cuộc đời.
* Rồi con cũng chợt nhận ra xưa giờ, con hay bị đối thể là những thứ phù phiếm bên ngoài DỤ DỖ và cuốn con đi: danh vọng, cảnh đẹp, những điều mới lạ, đẹp đẽ… Con cứ mải mê đi kiếm tìm những thứ xa vời, mông lung, những viễn cảnh tươi đẹp trong tương lai mà đánh rơi mất những giây phút HIỆN TẠI.
* Con cũng đã từng vì ưa thích những LỜI KHEN mà sợ tiếng cười chê, để rồi tạo ra lớp mặt nạ tốt đẹp bao bọc che đậy cái tâm sợ người cười chê ấy, và rồi dần dần chúng âm thầm BÀO MÒN sự chân thật nơi thân tâm con mà nhấn chìm con trong bế tắc, khổ đau.
* Con cứ phóng ý niệm đối thể để đi khắp nơi TÌM KIẾM con là ai, sứ mệnh của cuộc đời con là gì… mà chẳng thấy, cái con nhận lại chỉ toàn nỗi thất vọng. Để rồi khi con được chỉ dẫn quay về chính bổn tâm mình, con mới tìm ra những thứ con đã tìm kiếm bấy lâu nay.
Con hiểu ra HẠNH PHÚC thực sự bình dị, nó chỉ đơn giản là TÌNH YÊU THƯƠNG nằm ngay trong trái tim con.
🌸NGƯỜI DẠY CON: Bản chất NGHIỆP sinh ra từ bị thấy biết tạo nên tâm ý thức đối thể, để ta bị nó dẫn dắt. Từ đó ta liên tục phát sinh lời nói, hành động hướng đến đối thể, khiến ta KHÔNG THỂ tỏ thấu ý niệm nơi ta ở lời nói và hành động ấy. Dần dần những ý niệm ấy sẽ huân tập tạo nên tập khí hình thành tính cách gọi là nghiệp.
* Con lấy ví dụ: khi con nhìn thấy đối thể là “tiền” ở trước mắt, nhưng nó là tiền của người khác. Con sinh ra ý thức đối thể muốn lấy trộm nó và biện minh cho hành động này là vì người không để tiền cẩn thận. Như vậy ý nghĩ đối thể sinh ra, khi con không tư duy phản tỉnh chính mình, con sẽ bị nó dẫn dắt mà tạo nghiệp. Nhưng nếu con tỉnh giác và nhận diện ra ý thức đối thể ấy, con sẽ không bị nó dẫn dắt thành những hành động trái hại con, hại người.
Lại nữa, nếu con TƯ DUY PHẢN TỈNH mà hiểu ra rằng, con lấy tiền người 1 đồng, sau này con sẽ phải trả họ 10 đồng, bởi sự vay trả luôn sinh tạo lãi rất sòng phẳng, công minh nơi quy luật chính nó.
Vậy con lấy tiền người để làm gì, khi mà sau này phải trả gấp mười lần như thế, mà nhất là khi trả nợ là con ở thế bị động, con sẽ không biết vì sao mà con bị mất tiền, bị trộm tiền, bị trộm gia sản...
Để rồi, con sẽ lại sinh ra phiền não, u sầu và phóng tiếp những suy nghĩ đối thể NGHI NGỜ về người khác, mà tạo nên lời nói, hành động huân tập thành tập khí hình thành NGHIỆP SÂN SI, làm con mất năng lượng mà sinh bệnh, đó mới là NGU SI, MÊ MUỘI, LUÔN ÁC VỚI CHÍNH CON.
RÕ THẤU được quy luật vay trả rất sòng phẳng và công bằng, con sẽ không lấy tiền người và không tạo nghiệp si mê ngu si để con phải trả giá.
* Một ví dụ khác: khi chồng con có người phụ nữ khác, con không tìm hiểu, tư duy phản tỉnh xem nguyên nhân gốc rễ khiến chồng đi theo người khác là gì, mà lại cứ sinh ý thức đối thể ĐỔ LỖI do chồng, do người thứ ba dụ dỗ. Để rồi nổi cơn SÂN GIẬN đi đánh đập, lăng mạ người ta mà TẠO NGHIỆP OÁN KẾT nơi ta và người, để rồi bị nó trói buộc, dẫn dắt mà theo nó vay trả, trả vay mãi.
Hiểu được ý thức đối thể là GỐC RỄ sinh tạo ra nghiệp, con đã dành thời gian thực hành liên tục để NHẬN DIỆN ý thức đối thể. Nhất là trong đời sống vợ chồng, mỗi lần chồng khó chịu hay lớn tiếng với con, con đều im lặng và ngẫm nghĩ xem điều anh ấy nói đúng sai, phải trái ra sao để hiểu mà thương anh ấy, và SỬA ĐỔI mà hoàn thiện mình. Đây là điều rất khó với con vì xưa giờ bản tính con cao ngạo, hiếu thắng, nhưng nay con đã có thể chịu im lặng, lắng nghe người khác nói.
* Vì hiểu ra bản chất nghiệp nên con KHÔNG PHÁN XÉT THIỆN VÀ ÁC nữa. Con hiểu rằng có người đóng vai ác thì mới thành tựu sự nhẫn nhịn cho người thiện. Nếu con nói người ta ác, thì con đang tự cho mình là thiện, là tốt, để rồi bị bản ngã chính mình NGĂN CHE mà không nhận diện ra tâm ác đang ở trong người mình. Vậy nên trong con không còn sự phán xét, chỉ nghĩ họ đang diễn cảnh đó và DẠY CHO CON BÀI HỌC GÌ, và vì họ đang dạy con nhận diện chính mình nên con chỉ TRI ÂN họ mà thôi.
NGƯỜI LÀM THIỆN mà cho rằng mình làm thiện, liền sinh niệm đau khổ, phiền não, phán xét khi thấy người khác làm ác. Như vậy, về bản chất, người làm thiện ấy lại đang ÁC VỚI CHÍNH MÌNH, hại mình phiền não, khổ đau và sinh niệm phán xét TẠO NGHIỆP.
NGƯỜI LÀM ÁC mà biết mình đang làm ác, biết rõ nguyên nhân vì sao làm ác, chấp nhận nhân quả, chấp nhận người ta chửi mình, phán xét mình … thì đó là THIỆN.
NGƯỜI LÀM ÁC mà không biết mình ác, không chấp nhận nhân quả, không chấp nhận người khác mắng chửi mình… thì đó là họ đang tự tạo nghiệp mà ÁC VỚI CHÍNH HỌ.
Hiểu vậy, trong con không còn sự phán xét, mà chỉ còn TÌNH YÊU THƯƠNG
🌼NGƯỜI DẠY CON: BỆNH TẬT không phải là xấu, bệnh tật là để giúp con người nhận diện gốc rễ sinh ra nghiệp, mà dừng nghiệp.
* Con hiểu rằng BỆNH là do NGHIỆP sinh tạo mà thành. Chữa bệnh chỉ là chữa cái ngọn, còn cái gốc rễ vẫn còn đó, vẫn sinh sôi nảy nở thì bệnh sẽ không bao giờ dứt hẳn. Chữa bệnh là phải tìm TẬN GỐC RỄ Ý THỨC ĐỐI THỂ mình đã sinh tạo, từ đó SOI TỎ mọi nhân nghiệp, dứt nghiệp mới là nhổ tận gốc.
* Con cũng không còn cảm thấy phiền não khi nhìn thấy người thân hay ai đó bị bệnh. Bởi con thấu tỏ rằng bản chất là người bệnh đang TRẢ QUẢ cho nhân đối thể đã gieo tạo trong quá khứ. Khi trả hết thì bệnh sẽ tự tiêu tan. Con chỉ còn làm tất cả việc thiện lành, hành trì niệm Phật hồi hướng TÌNH YÊU THƯƠNG và HƯỚNG DẪN để họ soi tỏ được gốc rễ nghiệp đã sinh tạo, thoát khỏi si mê mà dừng nghiệp, chữa dứt hẳn bệnh. Đó mới là thực giúp.
🌷NGƯỜI DẠY CON: Chân thật sám hối, triệu hồi và hợp nhất ý thức đối thể mà GIẢI THOÁT NGHIỆP.
* Tất cả các NHÂN ĐỐI THỂ ta đã gieo tạo đều được lưu lại trong thức a lại da chính xác trong từng sát na. Các nhân đã gieo cứ nằm đó, đời đời kiếp kiếp, và cứ đủ duyên thì lại trổ quả, tác động vào đời sống chính con. Nên có nhiều việc con tạo nghiệp, gieo nhân ý thức đối thể, mà cứ nghĩ rằng không ai biết - bản chất là nó đã được tâm thức con sao chụp lại và lưu giữ nơi thức a lại da ấy.
* Bản chất SÁM HỐI là việc con NHẬN DIỆN ra tâm ý thức nào là gốc rễ sinh ra bệnh, sinh tạo niệm sợ hãi, đau khổ, phiền não, bất an... mà THU GOM hết chúng về để HỢP NHẤT cùng tâm thức chính con, và chúng sẽ tương tác, chuyển hóa TRỔ QUẢ ngay tại thời điểm hợp nhất ấy mà GIẢI THOÁT NGHIỆP đã gieo tạo.
Con luôn ghi nhớ rằng nhân đã gieo là NHẤT ĐỊNH sẽ phải trả quả, không bây giờ thì sau này, không kiếp này thì những kiếp sau, và giống như gửi ngân hàng đều có sinh lãi, nhân để càng lâu thì quả trổ càng nhiều, mức độ càng sâu nặng.
* Từ đó con hiểu ra rằng: NHẬN DIỆN gốc rễ tâm thức đối thể và SÁM HỐI là việc làm rất cần thiết. Khi ta thấu tỏ được nhân đối thể tạo nên nghiệp đã gieo trong quá khứ, từ đó biết chân thật sám hối ăn năn, hứa không tạo nghiệp nữa, thì nghiệp liền GIẢI THOÁT.
* Nhưng điều quan trọng nhất là ta luôn PHẢN TỈNH RÕ THẤU nhân gieo tạo ý thức đối thể khi các căn tiếp cảnh đối vật. Từ đó giúp chánh nhân làm người luôn thăng hoa tiến hóa nơi rõ thấu đối thể, đối thể luôn triệt tiêu về không mà hợp nhất hình thành sắc tướng. Đó là “TỎ SẮC TỨC KHÔNG, TỎ KHÔNG TỨC SẮC” mà tròn nhân làm người toàn chơn, toàn bích nơi thấy biết chính ta.
(Tỏ sắc tức không: nhận diện gốc rễ tạo nên sắc tướng thì đối thể luôn hợp nhất triệt tiêu về không. Rõ thấu đối thể là tỏ sắc tức không.
Tỏ không tức sắc: thấy không liền tạo nên đối thể chính nó hợp nhất tạo sắc tướng. )
Rõ thấu SỰ TRIỆT TIÊU ĐỐI THỂ luôn hợp nhất hình thành sắc tướng, để rồi rõ thấu BẢN CHẤT MUÔN PHÁP, chính là thật tướng VÔ TƯỚNG.
🍀NGƯỜI DẠY CON: THÂN NGƯỜI ĐÁNG QUÝ. Bởi chỉ có thân người thì ta mới học được qua sự tương tác với đối thể, thông qua các căn mắt, mũi, tai, miệng, da. Từ đó ta RÕ THẤU TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ, là gốc rễ tạo nên chánh nhân hình thành sắc tướng con người, mà thấu tỏ bản chất nơi sắc tướng ấy, chính là thấu triệt CHÂN THẬT TƯỚNG con người và muôn loại cảnh vật, là VÔ TƯỚNG (không có hình tướng) nơi thấy biết chính ta.
* Sau một thời gian trải nghiệm, con nhận ra rằng tâm thức con người là một quá trình học hỏi không ngừng để tiến hóa. Nhưng để trải nghiệm học hỏi thì tâm thức cần có thân người như ngôi nhà để bao bọc, che chở, nuôi dưỡng… bằng những ý niệm thiện lành, yêu thương nơi đối thể chính nó.
Và chỉ có thân người CÓ Ý THỨC, có sự tương tác đời đời mới học được; còn súc sinh thì ko có ý thức, chỉ có cuộc sống si mê theo bản năng nên không thể học, đó là giá trị quý báu mà ta phải TRÂN QUÝ THÂN NGƯỜI nơi kiếp sống này.
* Con cũng nhận ra THỜI GIAN để thân người tồn tại là ngắn ngủi và thật ĐÁNG QUÝ.
Nhân gieo tạo chưa kịp trổ quả thì thân người đã mất, khiến con KHÔNG THỂ HỌC XONG bài học ấy mà nhận ra giá trị đích thực để nhân quả thăng hoa tiến hóa, nên phải luân hồi mà học lại mãi.
Nên con đã và đang rất chăm chỉ học tập, thực hành pháp, thường tư duy phản tỉnh mà thực biết bài học đối thể dạy con rõ thấu bổn tâm chính mình nơi các pháp ấy.
* Tranh thủ hết sức để hướng dẫn các con, người thân yêu và bất kỳ ai cần sự hướng dẫn, vì con biết thời gian của mọi người ở trong kiếp người này thật là đáng quý.
* Con cũng thấu hiểu được NỖI KHỔ không có thân người của những tâm thức bị mắc kẹt, hay những tâm thức súc sinh. Nên con nguyện cố gắng hết sức GIẢI THOÁT SI MÊ cho các tâm thức ấy, hồi hướng TÌNH YÊU THƯƠNG TỎ THẤU để giúp họ giải thoát. Đối với những súc sinh đã hy sinh cuộc đời để phụng sự con người, con đều tri ân và nguyện cho chúng sinh ấy được thoát khỏi si mê, sớm được chuyển sinh làm người mà tiếp tục con đường tiến hóa.
🌸NGƯỜI DẠY CON: MỖI CHÚNG SINH LÀ MỘT VỊ PHẬT SẮP THÀNH.
Con hiểu ra rằng ai cũng đều có thể TRỞ THÀNH PHẬT. Chỉ cần ta nhận diện và hợp nhất, giải thoát hết tất cả những ý thức đối thể đã tạo ra trong quá khứ, và dừng phóng ý niệm đối thể phán xét người, chính là dừng sinh tạo niệm bị thấy biết đối thể.
Để rồi nơi ta chỉ thường hằng sống bằng TÌNH YÊU THƯƠNG TỎ THẤU CHÍNH MÌNH, hiểu được người mà giúp người hiểu chính họ, để luôn an nhiên, tự tại vào sinh ra tử.
Như vậy mỗi con người đều đang là Phật và giúp đỡ cho những chúng sinh tiểu vũ trụ nơi thân mình nhận diện được bản chất, tính cách mà thăng hoa tiến hóa.
Khi luôn RÕ THẤU TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ để chúng luôn hợp nhất triệt tiêu về không mà giữ vững chánh nhân làm người, ta sẽ luôn trải nghiệm thấy biết mà thăng hoa tiến hóa, tròn nhân làm người toàn chơn, toàn bích.
Ta cũng sẽ không phải luân hồi để học đi học lại những bài học. Tâm thức ta luôn thăng hoa tiến lên hòa cùng sự tiến hóa nơi vũ trụ càn khôn.

PHẦN 3: ÁNH SÁNG QUANG MINH NHƯ LAI PHẬT TỔ TRÙM KHẮP THẾ GIAN
22. THẤU TỎ BẢN CHẤT CỦA MA QUỶ VÀ NHẬN RA SỨ MỆNH CHÍNH MÌNH

Kể từ khi nắm được căn bản và lý giải được những vấn đề xoay quanh Ý Thức Đối Thể, tôi chính thức được lên lớp, và bắt đầu hiểu kỹ hơn về chính bản thân mình.
Một buổi chiều mùa đông, gia đình tôi có ghé thăm một ngôi nhà nhỏ. Hoàn cảnh hết sức thương tâm khi người cha còn trẻ mới mất được 4 ngày vì tai nạn lao động, để lại người vợ tật nguyền cùng 4 đứa con thơ nheo nhóc…
Khi ngồi trong nhà nói chuyện, tôi có nhìn vào hình người cha trên bàn thờ và niệm Phật cho ông. Tôi thấy thương ông vì cái chết đến quá đột ngột, hẳn còn nhiều dự định còn dang dở. Ấy vậy mà tâm thức ông đã đi theo tôi, chờ đến tận khi tôi thiền.
Buổi thiền gặp ông là một trải nghiệm… quá ấn tượng, bởi đó là lần đầu tiên tôi chính thức bắt đầu nhìn thấy MA.
Trời ơi, ông ấy xuất hiện là một luồng khí đen đặc quánh. Nói là khí nhưng nặng nề vô cùng, đen thui đen thít. Đó là một loại khí đen mà còn đen sâu thẳm hơn cả bóng đêm nữa!
Ông ấy ùa đến, đổ ập lên người, khiến tôi cảm thấy ngộp thở mà ngụp lặn trong dòng khí đen nặng nề đó, bầy nhầy y như bùn sình. Lúc đó tôi vô cùng kinh hãi! Cả người lạnh toát và nổi da gà toàn thân, trong đầu thì cứ vang lên những ý nghĩ: “MA MA! Sợ quá! Ghê quá!!!”, và không sao thoát ra nổi…
Tôi cứ lặn ngụp mãi trong làn khí đen như bùn sình ấy… Nhưng dần về sau, tôi bắt đầu cảm nhận được những nỗi buồn và sự bế tắc trong tâm thức ông. Buồn rũ rượi với những kế hoạch còn dang dở, nỗi buồn của một cuộc sống đầy bi thương... Rồi dần dần, tôi cũng hiểu ra rằng: bởi nhiều bế tắc, khổ đau nên tâm thức mới trở thành khí nước đen kịt như vậy.
Chẳng phải ông ấy thật đáng thương lắm sao? Ông ấy cần được giải thoát khỏi cảnh khổ sở này…
Nghĩ đến đây, tôi bắt đầu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, nguyện Tình Yêu Thương nơi tôi hòa cùng thanh tịnh lực A Di Đà Phật soi tỏ mọi gốc rễ si mê, giúp ông ấy giải thoát khỏi những bế tắc, khổ đau.
Và thật ngạc nhiên, khung cảnh căn nhà ông bắt đầu được tái hiện nơi tâm trí tôi. Theo từng câu niệm Phật, những khí đen, sình bùn ban đầu dần cuộn tròn lại rồi hóa thành khí trắng. Rồi chính khí trắng ấy bắt đầu lượn vòng vòng đi thăm tất cả các phòng trong nhà rất vui vẻ như chào tạm biệt người thân yêu. Ông quay trở lại sân, dần tiến lại chỗ tôi như đã sẵn sàng cho một cuộc hành trình mới.
Rồi lại theo từng lời niệm Phật, trên trời bỗng hiện ra một tia sáng rất lớn, và toàn bộ khí nơi ông trọn vẹn, dứt khoát bay về phía ánh sáng ấy, trong chốc lát đã hoàn toàn biến mất. Khung cảnh nhà cũng dần tan biến vào hư vô…
Nhìn thấy ông thanh thản, hạnh phúc bay về phía ánh sáng trên trời, tôi chợt thấy lòng mình sao HẠNH PHÚC lạ. Đó không phải niềm hạnh phúc bình thường, mà một cảm giác rất khác, cả cuộc đời tôi chưa bao giờ thấy vui như vậy…
...
Tôi đã đem phát hiện động trời này kể lại với Cô, kể về lần đầu tiên nhìn thấy Ma, về hành trình thay đổi cảm xúc từ sợ hãi đến ngỡ ngàng và hạnh phúc nơi chính tôi, không quên kèm thêm vài câu cảm thán!
“Nhưng mà giờ nghĩ lại con vẫn còn thấy sợ quá. May mà chỉ thấy khí, chứ thấy nguyên hình người chắc con sợ chạy mất dép quá Cô ơi! Con sợ Ma lắm. Hu hu...”
“Con à, con thấy sợ là vì con chưa hiểu về Ma. Con cũng mấy lần triệu hồi tâm thức mắc kẹt về, ấy cũng là Ma đó thôi.”
“Tại mấy tâm thức mắc kẹt đó là tâm thức nơi con, còn Ma này là người khác không phải con, nên con thấy sợ…”
“Con đã nhìn thấy BẢN CHẤT, tâm thức nơi con hay nơi người đâu có khác nhau.”
“Dạ… KHÔNG KHÁC, cũng đều là khí đen cả. Có điều ông này nhiều hơn và ụp hẳn lên người con, còn những tâm thức nơi con thì nhỏ và chui vào người con.”
“Phải, bản chất không khác nhau, cũng đều là tâm thức bị mắc kẹt hết. Con sợ là bởi từ trường âm u lạnh lẽo nơi tâm thức ông đã tạo cảm thọ lạnh lẽo nơi con.
Lại nữa, những tâm thức bị mắc kẹt nơi con quay trở về, đó chỉ là những ý thức vì bấu víu vào ý niệm mà kẹt lại, nên nó nhỏ. Còn tâm thức này là của một người hoàn chỉnh, là một tập hợp của nhiều bế tắc tích tụ, lo lắng của cả cuộc đời người đó, nên sự u minh tăm tối càng lớn thì từ trường lạnh lẽo toát ra từ nó càng lớn mà làm cho con cảm thấy sợ hãi.
Cũng bởi vì tình yêu thương nơi con chưa đủ lớn để dung chứa cái từ trường lạnh lẽo âm u, đen tối ấy mà sanh nên tâm sợ hãi. Bởi khi con phân biệt tâm thức này là tâm thức con, tâm thức kia là tâm thức người, vô tình con đã làm cho tình yêu thương nơi con hạn hẹp nơi tâm thức phân biệt ấy, nên nó chẳng thể dung chứa tâm thức si mê khổ đau nơi họ. Con mới thấy mình lặn ngụp, ngộp thở trong tâm thức họ là vậy.”
“Dạ, con hiểu rồi. Vậy có phải bởi vì đời sống họ sinh ra nhiều TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ phóng niệm về người, suy nghĩ cho người, lo lắng cho người, lo lắng cho cuộc sống vợ con không biết rồi đây sẽ ra sao mà đi vào bế tắc…
Cứ như vậy nỗi lo này chồng lên nỗi lo kia, niệm này chồng tiếp niệm kia, theo thời gian mà tạo nên bức màn u minh ngăn che sâu dày, để rồi tâm thức họ cứ sống mãi trong BÓNG ĐÊM U MÊ, bế tắc, khổ đau, đen thui đen thít như vậy, phải không Cô?”
“Phải, tất cả đều là BỊ THẤY BIẾT SI MÊ NGĂN CHE để rồi chẳng thể thấy ánh sáng mà giải thoát.”
“Chà, nếu thế thì chỉ cần người chết sáng tỏ, không còn bị si mê ngăn che là đã giải thoát được rồi, con thấy cũng đơn giản mà. Thế sao có nhiều người phải THỌ KHỔ, làm Ma, làm Quỷ suốt thời gian dài mới được giải thoát đó Cô?”
“Con à, con nghĩ xem, lúc còn sống họ mãi chạy theo ý niệm đối thể mà huân tập tạo nên TẬP KHÍ U MINH SÂU DÀY, bám chấp vào tâm thức, để nó dẫn dắt mà mãi xoay vần luẩn quẩn nơi đối thể ấy như ngày và đêm.
Họ luôn hướng về đối thể mà thấy mây che mặt trời thì làm sao họ biết được mặt trời luôn soi sáng đám mây mà tỉnh thức si mê hả con.
Đến khi con người chết đi, không còn sắc thân nữa thì lấy trí não đâu mà học, mà hiểu biết để sáng tỏ. Khi chết đi họ bị bao vây bởi bóng tối u minh, bị nhốt trong si mê đối thể - chính là ngục tù tâm thức họ tạo ra. Rồi cứ ở mãi trong đó, cô đơn, đau khổ hoặc lại si mê mà tiếp tục làm điều ác với chính họ… thì làm sao mà học được.
Cho đến khi họ thọ đủ khổ, đủ duyên thì mới có thiện hữu tri thức đến khai ngộ, mang ánh sáng tới soi đường cho họ giải thoát thì họ mới đi được. Giống như vừa nãy con làm đó vậy.
Được cái là khi con người chết đi, tâm thức thoát khỏi sắc tướng, nên chẳng bị ngăn che bởi sắc tướng đối thể. Họ sẽ rất dễ dàng nhận diện lại tâm ý thức chính mình, khi có sự tác động bởi ý niệm thanh tịnh lực Nam Mô A Di Đà Phật nơi con tương tác mà chuyển hóa u minh tăm tối thành khí thanh nhẹ rồi quy tụ về ánh sáng thanh tịnh Quang Minh Như Lai Phật Tổ mà giải thoát.”
“À, vậy nghĩa là nãy con niệm Phật là ông ấy hóa khí thanh nhẹ mà GIẢI THOÁT đó Cô hén! Và tâm thức bế tắc, khổ đau nơi ông ấy đã đủ duyên nên mới gặp con là thiện hữu tri thức tới khai ngộ, giúp ổng soi tỏ mọi bế tắc tâm thức mà giải thoát. Nhưng mà ngoài kia vậy là còn nhiều Ma Quỷ lắm, con thấy họ sao đáng thương quá! Làm sao để giúp họ RÚT NGẮN thời gian thọ khổ đây Cô?”
“Thời gian thọ khổ tùy thuộc vào nhân ý thức đối thể họ đã gieo trong cuộc sống trước kia. Thời gian có thể rút ngắn được khi người thân họ thường xuyên vì người đã mất mà trì tụng kinh, chú; và làm việc thiện nguyện hồi hướng công đức tới người thân của mình. Ấy là đang giúp người thân rút ngắn thời gian, sớm gặp được thiện hữu tri thức khai ngộ mà giải thoát.”
“Chà, Bổn Nguyên vận hành con thấy nhân văn quá! Nghĩa là nhân đã gieo thì vẫn phải trả quả, nhưng người thân bằng TÌNH YÊU THƯƠNG CHÂN THÀNH có thể giúp được người đã mất sớm kết thúc thời gian thọ khổ mà GIẢI THOÁT.
Mà con hỏi nè, không lẽ ai thiền rồi cũng sẽ thấy Ma sao? Và tại sao con nghe nhiều người kể thấy Ma ở dạng hình người, mà con thì chỉ thấy KHÍ, sao lạ vậy ạ?”
“Không phải ai cũng nhìn thấy Ma. Người chỉ nhìn thấy Ma khi có TẦN SỐ cùng với tần số nơi cõi ấy. Người nhìn thấy Ma, mỗi người lại có tần số khác nhau mà thị hiện nhiều sắc tướng khác nhau của Ma.
Như thấy biết nơi con thuộc tần số BẢN CHẤT Bổn Nguyên, nên con mới nhìn thấy tâm thức chúng sinh dưới dạng khí. Chỉ có thấy biết thấu tỏ được BẢN CHẤT GỐC RỄ SI MÊ sinh ra bế tắc, khổ đau thì mới GIẢI THOÁT TẬN CÙNG vô minh tăm tối. Còn thấy biết nhìn thấy hình tướng, nghĩa là còn tạo đối thể bị kẹt nơi sắc tướng thì chỉ giải thoát được cái ngọn tâm thức.”
“À, con hiểu rồi. Mà Cô nè, con thấy nãy con niệm Phật một chút là ông ấy đã giải thoát rồi, con nghĩ người nhà chỉ cần niệm Phật là cũng có thể giúp cho người đã khuất giải thoát được mà, phải không Cô? Vậy tại sao người ta phải mời thầy cúng rình rang cầu siêu vậy?”
“Không phải như con nghĩ đâu. Chỉ có người đã TỎ THẤU BẢN CHẤT GỐC RỄ thấy biết si mê mà thành tựu Hạnh Nguyện Giải Thoát mới giúp tâm thức giải thoát được con à. Con thấy đơn giản là vì con có Hạnh Nguyện đó mà đủ đức, đủ lực giúp người.
Ví như con có tiền, con mới cho người tiền mà giúp người thoát cái khổ thiếu tiền, nhưng chỉ là giúp người giải quyết cái ngọn. Bởi gốc rễ khổ đau nằm nơi tâm tham muốn bị thấy biết si mê ngăn che giác thể nơi thấy biết chính họ.
Còn con tỏ thấu bản chất tạo nên gốc rễ tâm ý thức ấy là do bị thấy biết ngăn che giác thể, nên con chỉ một lòng quay về chính con mà niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tánh thể liền theo ý niệm Phật ấy mà soi sáng tâm thức u mê tăm tối của vong linh đang đu bám nơi tâm thức con, chuyển hóa nó thành khí sáng quy về nguồn sáng Quang Minh Như Lai Phật Tổ.
Đó là con giúp tâm thức họ quy về Quang Minh Như Lai Phật Tổ mà giải thoát tận cùng bóng tối si mê nơi tâm thức họ. Cho nên, con tỏ thấu bản chất sanh tạo gốc rễ vô minh nơi tâm ý thức đối thể, mới giúp các tâm thức bế tắc nơi cõi cô hồn, ma quỷ quy về Quang Minh Như Lai Phật Tổ giải thoát được.
Người còn bị kẹt nơi bị thấy biết đối thể, sao có thể giúp tâm ý thức người đã mất soi tỏ si mê mà siêu thoát được. Họ chỉ có thể thông qua việc mời thầy về tụng niệm và làm từ thiện hồi hướng giúp cho người thân có thêm công đức để được siêu thoát lần lần nơi cái ngọn mà thôi. Các vong linh được đưa về chùa học đạo, ngày ngày nghe kinh, nghe pháp, tác động, tương tác cùng người làm công việc thiện nguyện phụng sự nhân sinh cũng là để dần thoát khỏi si mê tăng trưởng trí tuệ và chờ đủ duyên được giải thoát.”
“Vậy nghĩa là được GIẢI THOÁT là HẠNH PHÚC lớn nhất của các vong linh đúng không Cô? Hèn gì vừa nãy khi khí đen chuyển thành ánh sáng, con cảm nhận được ông ấy vui lắm lận!
À mà HẠNH NGUYỆN là gì hả Cô? Nó có giống Sứ Mệnh không?”
“Hạnh Nguyện là lời nguyện nơi con trong quá khứ, thân này của con được tái sinh ở thế gian là bởi Hạnh Nguyện đó. Cho nên, nhờ hạnh nguyện con mới được bảo hộ mà không đắm chìm vào danh lợi, tiền tài, vật chất do sắc thân con tạo ra, cho đến tình cảm luyến ái nam nữ cũng chỉ để cho con trải nghiệm mà thực biết về nó, chứ không bị đam mê mà đắm chìm vào nó, để con sớm nhận ra chân thật tướng các pháp đối thể.
Hạnh nguyện chính là mạng sống, là hơi thở chính con. Hạnh Nguyện là Sứ Mạng đó con.”
“Oa, hay quá! Bấy lâu nay con biết con có Sứ Mệnh gì đó và luôn đi tìm mà chẳng thấy, nay con đã nhận ra rồi nè. Vậy là SỨ MỆNH nơi con là Giải Thoát tâm thức si mê bằng việc quy tụ họ về Quang Minh Như Lai Phật Tổ, phải không Cô?”
“Phải, GIẢI THOÁT TÂM THỨC SI MÊ, đó là Hạnh Nguyện, cũng là Sứ Mạng nơi con.”
“OA! Hay quá! Vậy là con đã tìm ra Sứ Mệnh đời này của con rồi!”
“Chẳng phải vừa nãy khi thấy ông ấy đi về phía ánh sáng con thấy HẠNH PHÚC chưa từng có đó sao. Nhưng đây chỉ mới là một phần, con cứ tiếp tục hành pháp, dần dần Bổn Nguyên sẽ cho con hiểu rõ hơn về Hạnh Nguyện nơi con."
“Dạ! Con hiểu rồi nè! Con đang thấy vui quá trời đây!
À, còn nữa, sau khi nói chuyện với Cô xong, tự nhiên con nhận thấy: THÂN NGƯỜI NÀY ĐÁNG QUÝ VÔ CÙNG nha Cô!
Vì chỉ có thân người mới có ĐỐI THỂ để tương tác mà học tập, mà tỏ thấu chân lý vô thượng. Có thân người mới có ý thức, trí tuệ để tư duy phản tỉnh chính mình, ngừng sinh tạo ý thức đối thể mà dừng nghiệp, sám hối mà giải thoát nghiệp. Để rồi khi chết đi không còn bị bóng tối si mê bị thấy biết đối thể ngăn che nữa. Thì sẽ tự mình giải thoát mà thăng hoa tiến hóa, chẳng cần ai giúp khai ngộ.
Kiếp người này mà cứ mải mê chạy theo vật chất, danh lợi, tiền tài ... để rồi không thể phản tỉnh tư duy tỏ thấu bổn tâm nơi các pháp đối thể mà giải thoát sắc tướng quy về vô tướng, ấy là không tự khai sáng cho tâm thức chính mình, thì chẳng phải đang LÃNG PHÍ THỜI GIAN lắm sao?”
“Y vậy, thân người này đáng quý vô cùng, nên hãy QUÝ TRỌNG THỜI GIAN kiếp người này mà TINH TẤN TƯ DUY PHẢN TỈNH khi các căn tiếp cảnh đối vật. Cha trời mẹ đất, cùng cha mẹ thế gian sinh con ra, yêu thương con, cho con có thân người để học; nhưng các con không lo học, cứ ham mê cảnh sắc, lãng phí thời gian mà làm cha mẹ lo lắng, ưu tư, đau quặn tâm can. Nhìn nhân sinh là các con đau khổ mà nước mắt chảy dài nhiều như nước biển.
Cho nên Bổn Nguyên đang vận hành CHÂN LÝ NHÂN QUẢ NHỨT NHƯ nơi thấy biết nhân sinh, theo nhân trổ quả, theo niệm phản niệm, hiệp nhứt đối thể quy tụ về Quang Minh Như Lai Phật Tổ giải thoát si mê, đời này sẽ có rất nhiều tâm thức si mê GIẢI THOÁT và được đưa lên trời học đạo.”
“Có nghĩa là thay vì thời gian họ thọ khổ trong bóng tối u mê ở dưới trần gian, thì sẽ được khai sáng, giống như là ân xá và đưa lên LÊN TRỜI HỌC ĐẠO Cô hén!”
“Y vậy. Và con đã phát nguyện làm nhiệm vụ đưa họ lên trời học đạo đó vậy.”
“Oa, con hiểu rồi nè! Lúc thấy người ta GIẢI THOÁT con thấy HẠNH PHÚC lắm lận! Giờ con hiểu ý nghĩa của công việc con làm rồi, con không còn thấy sợ nữa mà thấy thích lắm!
Con sẽ tinh tấn tu hành để có thể hoàn thành tâm nguyện chính mình. Cảm ơn Cô nhiều nhiều nha!”
“Cố gắng tinh tấn chăm chỉ hành trì thời thời khắc khắc nghen con.”
Kể từ sau lần ấy, tôi bắt đầu dần quen với việc nhìn thấy Ma… Mỗi lần đi ngang qua đám tang nào tôi cũng đều niệm Phật cho họ, rồi họ cứ theo tiếng niệm Phật mà đi theo, chờ tôi thiền để được giải thoát. Hóa ra tôi đã hành cái hạnh nguyện này từ khi còn nhỏ mà không hề nhận ra, hồi ấy cứ mỗi lần đi ngang qua đám ma nào là tôi đều niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” nhiều lần và mong cho họ được siêu thoát, cho dù họ không phải là đạo Phật tôi cũng đều niệm vậy. Bao lâu qua tôi vẫn đang hành Hạnh Nguyện chính mình mà không nhận ra.
Rồi người thân, họ hàng của nhà tôi và chồng tôi, từ thai nhi cho đến người già, cả những người đã mất cách đây mấy chục năm… cũng lần lượt tới để cùng tôi niệm Phật, niệm Chú Đại Bi mà giải thoát.
Khi tôi thiền, những tâm thức cô đơn bên ngoài nhìn thấy ánh sáng bổn thể nơi tôi, họ đều lập tức tìm tới… Tất cả tâm thức đều có bản chất khí giống nhau, chỉ có độ sáng là khác, người bế tắc, bám chấp, khổ đau nhiều thì đen kịt, người ít si mê thì sáng hơn. Vì không nhìn thấy sắc tướng, chỉ thấy bản chất nên ai cũng là khí như nhau, nên tình yêu thương nơi tôi dành cho họ cũng giống nhau, chẳng hề phân biệt.
Theo thời gian, cái tâm yêu thương nơi tôi ngày càng trở nên rộng lớn, Bổn Nguyên đã cho tôi nhìn thấy tâm mình hệt như một biển cả mênh mông không còn bờ mé. Chỉ có tâm yêu thương rộng lớn như biển cả, mới có thể dung chứa hết tâm thức si mê nơi chúng sinh, hệt như cống rãnh, ao, hồ, sông, suối đổ ra biển.
Dần dần, tôi không còn phải bơi trong sình bùn bế tắc nơi tâm thức người đã mất nữa, mà thân người tôi trở nên to lớn, các chúng sinh đều lấy nơi ngực và bụng tôi - ấm áp, đầy tình yêu thương – làm mái nhà để bao bọc, che chở cho họ, tiễn họ về trời học đạo. Nhìn thấy họ Giải Thoát, tôi cảm thấy Hạnh Phúc, đây là niềm Hạnh Phúc mà tôi đã đi tìm suốt những năm tháng tuổi trẻ.
Ma Quỷ tâm thức chính ta
Tạo từ bị thấy ngăn che chính mình.
Hình thành tâm thức u minh
Hướng về đối thể nghĩ suy mọi điều.
Lo toan mọi thứ cho người
Lo toan mọi việc nơi ta chưa thành.
Cái tâm ham muốn đủ điều
Khi mà ta đã sức tàn, hoại thân.
Bởi lực luôn bất tòng tâm
Đi vào bế tắc, đường cùng tối om.
Tạo nên cảnh giới nơi ta
Là nơi cư trú tâm hồn khổ đau.
Khi mà bỏ xác thân này
Tâm kia hiện dáng nơi người có duyên.
Được gọi hồn quỷ hồn ma
Để cho ta biết cảnh người mất thân.
Đặng mà giúp họ quy về
Quang Minh Phật Tổ Như Lai soi đường.
Soi tỏ bóng tối u minh
Hóa thành khí sáng hòa cùng Quang Minh.
Về trời học đạo huyền thiên
Là niềm hạnh phúc vô bờ nơi ta.

23. TÂM THỨC KẾT NỐI NHAU KHÔNG PHÂN BIỆT TÔN GIÁO, DÂN TỘC, NGÔN NGỮ, VỊ TRÍ ĐỊA LÝ

Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn luôn vừa hành pháp vừa học trong Hạnh Nguyện chính mình. Theo thời gian, tôi dần thấu tỏ rõ ràng nhiều khía cạnh về TÂM THỨC CON NGƯỜI. Con người vì bị thấy biết si mê ngăn che mà luôn tạo ra những rào cản giới hạn sự kết nối giữa tâm thức con người với nhau, bởi sự phân biệt tôn giáo, dân tộc hay vị trí địa lý... Nhưng về bản chất, khi phá bỏ hết lớp màng ngăn che tạo khoảng cách ấy, thì tâm thức con người vốn dĩ kết nối nhau KHÔNG HỀ CÓ GIỚI HẠN.
🌸🌸TÂM THỨC KHÔNG PHÂN BIỆT TÔN GIÁO – PHẬT, CHÚA ĐỀU NGAY TRONG TÂM TA🌸🌸
Bản chất các TÔN GIÁO trên thế gian đều đồng chung gốc, đều là CÁC PHÁP PHƯƠNG TIỆN, theo nhân gieo tạo nơi thấy biết chính mình mà Bổn Nguyên tạo ra bài học để nhân sinh trải nghiệm mà học được GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC nơi nó trong một kiếp người. Nhưng con người chúng ta lại cứ si mê mà sinh tâm phân biệt, rồi đấu đá, bài xích lẫn nhau… để mãi chìm sâu trong vòng xoáy hơn thua vay trả, xoay vần như ngày và đêm.
Tôi có gặp vài người, rất tôn sùng đạo Phật, mà nhân duyên sắp đặt người chồng hoặc vợ mình theo đạo Thiên Chúa. Để rồi, vì sự tôn sùng cái đạo phương tiện do thấy biết nhị nguyên con người lập ra ấy mà tạo nên sự bất đồng quan điểm, bất đồng hệ tư tưởng, triết lý sống mà bất hòa, cãi cọ, phá vỡ tình yêu thương vợ chồng. Mà không biết rằng chính cái tâm CHẤP VÀO ĐẠO được huân tập nhiều kiếp nơi chính mình, cái TÂM PHÂN BIỆT TÔN GIÁO mà ở kiếp này Bổn nguyên theo nhân tạo nơi thấy biết con người mà sắp xếp tạo nên bài học, đặt mình vào hoàn cảnh ngang trái ấy mà NHẬN DIỆN vấn đề nơi tâm thức đối thể chính mình.
Đã vậy, kiếp này vẫn chưa chịu tỉnh ngộ, cứ tiếp tục si mê, không tự tư duy phản tỉnh chính mình mà lại đổ lỗi cho ông trời, số phận, rồi sinh tâm phê phán, trách móc mà bất hòa với người chồng hoặc vợ chính mình. Vợ chồng yêu thương quấn quýt nhau là thế, vậy mà vì bất đồng quan điểm tôn giáo liền thành đấu tranh, oán giận lẫn nhau, đó là tự mình hại mình khổ đau, phiền não; lại còn tạo nghiệp hại chính gia đình mình bằng sự si mê tăm tối.
TÔN GIÁO là đại diện cho ĐẠO, mang NĂNG LƯỢNG TỈNH THỨC, NĂNG LƯỢNG YÊU THƯƠNG đến để giúp con người nhận ra chân tướng sự thật mà giải thoát mọi đau khổ, xóa tan mọi khoảng cách, để hàn gắn và kết nối con người lại với nhau, tạo NĂNG LƯỢNG TÍCH CỰC mà chuyển hóa mọi tư tưởng tiêu cực nơi đời sống con người.
Nhưng con người đã biến đạo thành tôn giáo, lập nên những hệ thống tư tưởng giáo điều chỉ để phục vụ cho BẢN NGÃ SI MÊ chính mình, ấy là con người đã đi ngược lại mục đích mà con người luôn hướng về đạo để tầm cầu chân lý.
Tôi đã được Bổn Nguyên chỉ dạy mà thấu tỏ rằng: BẢN CHẤT TÔN GIÁO CHỈ LÀ PHƯƠNG TIỆN ĐỂ NHÂN SINH QUAY VỀ CHÍNH BỔN TÂM MÌNH MÀ TỎ PHÁP.
* Bằng chứng là tôi vẫn luôn dùng pháp Phật Giáo để Giải Thoát cho cả những tâm thức theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành… Tôi không làm gì, chỉ niệm Phật bằng TÌNH YÊU THƯƠNG thì các vong linh cũng đều hóa khí sáng quy về Quang Minh Như Lai Phật Tổ về trời học đạo. Như vậy, tâm thức con người vốn dĩ đâu phân biệt tôn giáo, do người bị đối thể si mê dẫn dắt ngăn che giác thể mà sinh tâm phân biệt, rồi vì tâm phân biệt này mà tự làm khổ lẫn nhau.
* Một câu chuyện khác, tôi đã từng dùng năng lực Mười Phương Chư Phật thông qua chú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni để quay ngược về quá khứ trong mơ, mà giải thoát cho tâm thức vì CHẤP VÀO ĐẠO mà bị mắc kẹt lại của chính tôi.
Trong mơ, tôi đã thấy mình bay qua một con đường hai bên là những hàng cây phong, lá đỏ rụng đầy trên con đường sỏi đá. Con đường dẫn tới một căn nhà nhỏ được xây với kiến trúc Châu Âu cổ, nằm bên cạnh một hồ nước lớn. Khung cảnh rất đẹp, bình yên, và đó cũng chính là căn nhà mà một trong vô lượng kiếp tôi đã sống.
Tôi đi xuyên vào cửa nhà, rồi bắt đầu lao xuống một tầng hầm sâu thẳm, được xây hoàn toàn bằng những tảng đá chẻ cứng ngắc, càng đi xuống càng thấy tối tăm mù mịt. Tôi bước vào một căn phòng, ở nơi ấy có hình ảnh một cô gái đang ngồi bên khung cửa sổ đóng kín. Trên cánh cửa kính ấy có trang trí những bức vẽ màu xanh đỏ như các bức vẽ ở thời kỳ Phục Hưng.
Cô ấy nói rằng: “Tôi không đi đâu, tôi biết rằng khi cánh cửa sổ này mở ra, ánh sáng chiếu vào thì Chúa sẽ tới đón tôi đi!” Vừa dứt lời, cô ấy đẩy tôi một phát tóe lửa, công lực mạnh đến nỗi khiến tôi văng ra khỏi thức a lại da và tỉnh giấc mà chưa kịp nói lời nào...
Sự bám chấp huân tập sâu dày nơi tâm thức cô ấy đã tích tụ thành công lực quá mạnh, quá cứng đầu và cố chấp. Cô ấy mê muội đến mức không nhận ra rằng cánh cửa sổ ấy nằm sâu thẳm trong lòng đất, phía sau là bức vách đá chẻ sâu dày, thì đợi đến bao giờ mới có thể mở được? Mà giả sử có mở cũng không thể có ánh sáng chiếu vào mà cứ si mê chờ Chúa đến Giải Thoát.
Căn hầm đó chính là NGỤC TÙ TÂM THỨC do chính sự SI MÊ BÁM CHẤP VÀO ĐẠO, mà huân tập thành lớp đá chẻ khối khối, tảng tảng, ngăn che ánh sáng quang minh tánh thể chiếu vào. Để rồi TỰ HẠI MÌNH, nhốt mình vào a tỳ ngục thức tăm tối, bế tắc, khổ đau mà cứ ở mãi nơi đó ĐỜI ĐỜI KIẾP KIẾP, chẳng thể giải thoát…
Hôm sau được sự hướng dẫn của Cô, tôi tiếp tục dùng năng lượng Mười Phương Chư Phật mà quay trở lại gặp cô ấy trong mơ. Cô ấy lại cứ buồn rầu, lảm nhảm bên cửa sổ. Cô ấy chưa kịp đuổi, thì tôi đã nhìn thẳng vào mắt cô ấy mà nói to: “CHÚA Ở TRONG NGƯỜI CHỊ! CHÚA Ở TRONG NGƯỜI CHỊ!” … Trong giây lát, cô ấy TRỢN TRÒN MẮT, nhìn vào ngực chính mình và ngỡ ngàng: “THẬT SAO?!”
Lồng ngực cô ấy bỗng phát sáng, rồi cô ấy dần chuyển hết thành khí trắng cuộn thành vòng. Theo lời niệm Phật nơi chính tôi, toàn bộ căn hầm tù ngục hóa sáng VỠ TUNG! Cô ấy đã ĐƯỢC TỰ DO và mạnh mẽ bay về ánh sáng Quang Minh Như Lai Phật Tổ.
Cảm giác chứng kiến tất cả mọi thứ hóa sáng và giải thoát thật tuyệt vời! Tôi cứ ở đó nhìn theo cô ấy, cho đến khi Bổn Nguyên đẩy tôi trở về thực tại và tỉnh giấc.
Đó là tâm thức mắc kẹt nơi chính tôi, cũng chính là tâm thức chấp vào Chúa nơi chính tôi trong quá khứ, nay đã được GIẢI THOÁT.
* VẬY HÓA RA, nhiều kiếp trước tôi đã từng theo đạo Thiên Chúa, và kiếp này tôi đang hành pháp đạo Phật để giúp các hóa thân nơi tôi giải thoát.
Nếu kiếp này tôi lại tiếp tục si mê phân biệt những người theo đạo Thiên Chúa, thì có khác gì đang bài xích chính tôi trong quá khứ. Tôi sẽ chẳng thể giúp cho tâm thức mắc kẹt nơi các kiếp quá khứ giải thoát, lại tiếp tục tạo thêm tâm thức mắc kẹt bám chấp nơi ý niệm mà bị giam cầm trong bóng tối si mê sâu dày, luẩn quẩn chẳng có lối thoát.
* Tâm thức ta là một hành trình dài hàng triệu kiếp của sự thăng hoa tiến hóa: từ cây cỏ, động vật lên thành người. Chúng ta đã có mặt ở khắp mọi nơi trên trái đất này, vậy tại sao nơi thân người này lại cứ sinh tâm phân biệt đối xử? Khi mà những người bị phân biệt ấy, đều là cha mẹ anh em, thân bằng quyến thuộc, bạn bè thân hữu, thầy trò đồng tông môn, đồng hành pháp lữ, cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay… nhiều đời nhiều kiếp của chính ta.
Bởi vì tâm phân biệt, chấp vào đạo mà khiến ta xoay vần luân hồi như ngày và đêm học mãi bài học này đã gần 3000 năm mà vẫn chưa tỉnh ngộ, để rồi cứ luân hồi học học lại mãi.
Bổn Nguyên vận hành thấy biết nhân sinh theo nhân trổ quả mà sắp xếp cho ta vào các hoàn cảnh éo le, VÌ TÌNH YÊU muốn gắn kết thành vợ chồng mà buộc ta phải bỏ đạo này để theo đạo kia, nhằm PHÁ VỠ Ý NIỆM CHẤP ĐẠO đã tạo nên cái tôi bản ngã si mê nơi ta. Đó cũng chính là giúp ta HY SINH CÁI TÔI NHÂN NGÃ MÀ PHỤNG SỰ CHO TÌNH YÊU CON NGƯỜI. Bởi ta chưa đủ trí tuệ để nhận ra chân ý các pháp mà Bổn Nguyên dạy ta, nên ta vẫn cứng đầu không chịu buông bỏ những ý niệm chấp đạo sâu dày để hoàn thành bài học:
CHỈ CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG MỚI VƯỢT THOÁT RÀO CẢN TÔN GIÁO MÀ GẮN KẾT CON NGƯỜI LẠI VỚI NHAU.
Và khi ta thực sống bằng tình yêu thương gắn kết ấy, ta mới thực biết GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC nơi đạo lập thành tôn giáo trong cuộc sống con người. Đạo nào cũng chỉ là PHƯƠNG TIỆN để nhân sinh QUAY VỀ BỔN TÂM mà hoàn thiện chính mình trên con đường thăng hoa tiến hóa mà thôi.
* Lại nữa, cô gái là tâm thức mắc kẹt nơi chính tôi trong quá khứ, cô ấy bị nhốt trong ngục tù sâu thẳm nơi tâm thức chính mình tạo ra, mà ở đó chờ đợi Chúa đến giúp mình giải thoát, chờ tới tận bao nhiêu kiếp người cũng chẳng thấy. Nếu tôi không tới thì sẽ CHẲNG CÓ CHÚA NÀO TỚI CẢ. Bởi vì CHÚA ĐÂU CÓ NẰM BÊN NGOÀI TA mà để ta đi cầu xin Chúa.
CHÚA Ở TRONG TÂM TA, CHÚA CHÍNH LÀ TA!
Cô ấy đã chờ đợi tới mấy trăm năm, cho đến khi tôi TỎ NGỘ CHÂN LÝ đơn giản này, thì mới đủ lực mà quay về KHAI NGỘ giúp cô ấy giải thoát. Chỉ cần một câu nói, và cô ấy cũng chỉ kịp thốt lên tiếng ngạc nhiên khi hiểu ra chân lý: “Chúa ở ngay trong tâm mình”, là lập tức được GIẢI THOÁT.
Mỗi chúng ta là một vị Phật sắp thành, là con Chúa thì cũng sẽ thành Chúa. Vậy tại sao lại cứ đi cầu xin sự ban ơn bên ngoài, trong khi không tự mình tu tập, rèn luyện để trở thành Phật, thành Chúa nơi bổn tâm chính ta.
Phật là cảnh giới HOÀN THIỆN THẤY BIẾT nơi thân làm người, và chỉ có muôn pháp nơi thế gian mới giúp thân người VIÊN MÃN HẠNH NGUYỆN thập độ mà phát triển hoàn thiện trí não, tạo nên hình hài một vị Phật toàn chơn, toàn bích. Con người hằng sống bằng sự TỈNH GIÁC rõ thấu muôn pháp nơi thấy biết chính mình, ấy là con người đang thành tựu một vị Phật nơi chính mình.
Còn Chúa là hiển bày TÌNH YÊU THƯƠNG nhân loại, hiển bày đức tin sâu NHÂN QUẢ chính mình mà phụng sự nhân sinh để con người trải nghiệm muôn pháp mà học hỏi hòng nhận ra giá trị đích thực sự sống nơi con người và muôn loài vạn vật tại nhân gian. Con người hằng sống bằng TÌNH YÊU THƯƠNG mà PHỤNG SỰ nhân loại, luôn thấu hiểu cho sự không biết nơi con người tạo ra mà bình an, ấy là ta đang hoàn thiện vị Chúa nơi con người chính ta.
Chỉ có ta - bằng TÌNH YÊU THƯƠNG mà tỏ thấu bổn tâm mình, bằng TÌNH YÊU THƯƠNG mà làm các việc thiện lành, bằng TÌNH YÊU THƯƠNG mình và thương người mà không sinh tạo ý thức đối thể trong đời sống – mới có thể giúp được chính ta giữ vững chánh nhân làm người mà tiếp tục thăng hoa tiến hóa.
🌼🌼TÂM THỨC KẾT NỐI NHAU KHÔNG PHÂN BIỆT VỊ TRÍ ĐỊA LÝ 🌼🌼
Vào một buổi sáng đẹp trời, chồng tôi đi dự khai trương một quán cà phê và có quay một đoạn phim về quán mang về cho tôi xem.
Vậy mà vào buổi thiền tối hôm ấy, khung cảnh quán cà phê tự động tái hiện lại nơi tâm trí tôi. Tôi thấy mình tự động đi vào một đường hầm đâm sâu xuống dưới nền nhà. Tại đó, có tâm thức của một vị lớn tuổi đã tu luyện lâu năm nên ánh sáng rất lớn. Nhưng Người chưa biết đường đi, nên vẫn còn ở sâu dưới lớp đất. Chính Hạnh Nguyện Giải Thoát những tâm thức chúng sinh bị mắc kẹt nơi tôi đã dẫn dắt tôi đến gặp Người, để tôi tương tác cùng tâm thức Người bằng sự niệm Phật, mà giúp tâm thức Người giải thoát quy về Quang Minh Như Lai Phật Tổ về trời học đạo.
Tôi đã rất ngạc nhiên khi chỉ xem qua một đoạn phim, mà tôi có thể gặp ngay một tâm thức đang chờ đủ duyên để được giải thoát. Vậy chẳng phải, đây là bằng chứng cho thấy tâm thức con người vốn dĩ kết nối với nhau chỉ cần qua một cái nhìn thấy, chỉ cần là một đoạn phim, một hình ảnh gián tiếp qua thiết bị điện tử. Vậy thì vốn dĩ, tâm thức con người luôn đi mây về gió, đâu có phân biệt xa gần, phân biệt vị trí địa lý.
Giờ này, nhờ Cô giải thích tôi mới hiểu, những thước phim mà chồng tôi quay là cảnh mới tạo từ đất cũ là tầng hầm sâu dưới lòng đất đang nhốt giữ tâm thức một người tu luyện. Và đó chính là tâm thức bị mắc kẹt lại của một kiếp người nơi chính tôi. Giờ gặp lại nó qua cảnh mới, nhưng tâm thức tôi đã xuyên thấu cảnh ấy mà tái hiện bối cảnh cũ khi xưa, bởi chẳng có khoảng cách ngăn che.
Cái NHÌN XUYÊN THẤU ấy đã giúp tôi thấu triệt bản chất: tâm thức luôn tái hiện cảnh đã lưu giữ KHÔNG PHÂN BIỆT thời gian, không gian và hoàn cảnh. Đó chính là vượt thoát thời gian, không gian và bối cảnh thực tại.
Hệt như thân xác tôi ở Nha Trang, nhưng hàng ngày vẫn đi làm việc tâm linh ở những nơi khác: tới các tỉnh thành trong cả nước chỉ vài giây, qua các nước khác trong nửa phút, hay đi tới vũ trụ chỉ chưa đầy 1 phút… Để cho ta thấy rằng, khi tâm thức ta vượt thoát khỏi sắc tướng, thì sẽ bứt phá hết mọi giới hạn, mà làm được những điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng.
TẤT CẢ MỌI THỨ TA ĐỀU LÀM ĐƯỢC HẾT. Chỉ cần ta nhất tâm quay về chính mình mà tư duy phản tỉnh học tập phát triển trí tuệ hàng ngày.
🌷🌷TÂM THỨC KHÔNG HỀ CÓ SỰ PHÂN BIỆT NGÔN NGỮ🌷🌷
Cũng là một sự đưa đẩy của nhân duyên, khi tôi tình cờ xem được một đoạn phim ca nhạc của một cô ca sĩ Hàn Quốc chết trẻ cách đó không lâu, đây là bài hát cuối cùng của cô ấy khi còn sống. Cô ấy rất đẹp, nhưng ánh mắt chất chứa nhiều nỗi ưu tư, sao thấy thương quá! Tôi đã bất giác khởi niệm và ngay lập tức cô ấy đã tìm đến tôi.
Cô ấy là người Hàn, còn tôi là người Việt, ấy vậy mà tôi nói gì cô ấy cũng đều hiểu và tự trút bỏ những trói buộc mà GIẢI THOÁT. Tôi đã rất bất ngờ vì điều đó, và nhận ra ngay bài học cho mình. Đó là một khi tâm thức tìm đến nhau bằng Tình Yêu Thương, thì sẽ tự động hiểu nhau thông qua NGÔN NGỮ CHƠN NHƯ. Hệt như khi con người xương thịt bằng tình yêu thương có thể hiểu nhau mà vượt qua mọi chông gai để đến được với nhau vậy.
Tôi hiểu ra rằng chỉ cần có TÌNH YÊU THƯƠNG thì mọi rào cản đều được phá vỡ, sự bất đồng ngôn ngữ, hay khoảng cách địa lý…đều chẳng còn.
☘️☘️TÂM THỨC KHÔNG PHÂN BIỆT SẮC TỘC☘️☘️
Trong quá trình hành pháp, tôi mới nhận ra nhiều sự thật bất ngờ về chính mình, và đôi khi đã bật cười cho sự si mê, ngu muội nơi chính tôi trong quá khứ.
Tôi đã từng chê người châu Phi đen, nhưng cuối cùng lại nhận ra một trong vô lượng kiếp trước, tôi đã từng là thổ dân ở đó. Tôi từng cười cợt dân tộc Chăm, nhìn quê mùa, đen đúa, nhưng cuối cùng lại nhận ra ngàn năm về trước tôi đã từng là người Chăm, thuộc nước Chiêm Thành. Để rồi bây giờ, nhìn thấy người Chăm hay bất cứ người dân tộc nào, tôi cũng đều thấy thương như người anh em của chính mình. Tôi cũng đã từng không thích người Trung Quốc và hay phán xét họ thô lỗ, nhưng rồi lại nhận ra là vài kiếp về trước tôi đã từng hành nghề thịt chó ở Trung Quốc…
VẬY HÓA RA, tất cả những người tôi cười chê, phê phán, chẳng phải đều là hình ảnh của chính tôi trong quá khứ hay sao? Và chính những ý niệm vô minh ấy lại vô tình khiến những tâm thức bị mắc kẹt nơi chính tôi ở những kiếp ấy cứ bị kẹt lại chẳng thể giải thoát. Ngày xưa tôi vì sự si mê, ngu dốt mà sinh tâm phân biệt, nhưng khi nhận ra sự thật, tôi đã bật cười cho sự ngây ngô của chính mình trong quá khứ.
Chúng ta đã sống cả hàng triệu kiếp chứ có phải chỉ một mình kiếp này đâu. Nên tâm thức ta rải rác ở khắp mọi nơi trên thế giới này, nơi đâu cũng đều có dấu ấn của chính ta. Vậy chẳng phải tất cả mọi nhân sinh trên trái đất này đều là hình ảnh của chính ta trong quá khứ, và cũng đều là thân bằng quyến thuộc của ta hay sao? Tại sao lại cứ si mê mà sinh tâm phân biệt, đấu đá, đấu tranh lẫn nhau?
Kiếp người này ta cứ sinh tâm phán xét, phê phán, kỳ thị sắc tộc, đó là ta đang gieo nhân đối thể. Để rồi từ cái nhân đó, Bổn Nguyên sẽ vận hành nhân ra quả để ta thành người mà ta KỲ THỊ, hòng biết được cảm giác BỊ KỲ THỊ ra sao mà dừng ý niệm kỳ thị. Chê người ta da đen, chê người ta là dân tộc thiểu số, thì sau này ta sẽ trở thành họ, chịu cảnh người đời chê bai y như vậy, chỉ để nhận ra bài học TÂM THỨC KHÔNG PHÂN BIỆT SẮC TỘC mà thôi.
🍀🌷🌸
Chỉ khi đứng ở vị trí xem đối thể là ảnh phản chiếu mà tỏ thấu tâm ý thức đối thể chính ta, con người mới vượt thoát tâm ý thức đối thể mà nhận diện ra rằng, bản chất tâm thức con người luôn kết nối tương tác mà nhận diện ra nhau KHÔNG HỀ CÓ GIỚI HẠN.

24. NHỮNG GÌ TA TẠO RA VÀ BÁM CHẤP VÀO NÓ, ĐỀU TRÓI BUỘC TÂM THỨC CHÍNH TA (PHẦN 1: LỜI NÓI, HÌNH ẢNH, BÀI VIẾT)

Mỗi ngày trôi qua, tôi đều thầm cảm ơn cuộc đời, các đối thể, cảm ơn Bổn Nguyên, cảm ơn Cô, vì luôn mang đến những bài học quý giá, để tôi nhận diện chúng sinh tâm thức đối thể nơi tôi mà hoàn thiện bản thân mình.
Tôi từng nghĩ rằng, xưa nay tôi hành pháp GIẢI THOÁT SI MÊ cho chúng sinh, là đang giúp họ, nhưng thực tế, đều là Bổn Nguyên đang giúp tôi THU HỒI những tâm thức bị mắc kẹt do chính mình sinh tạo nhiều đời, nhiều kiếp. Qua những bài học, tôi dần thức tỉnh để thời thời khắc khắc trong cuộc sống, tôi không sinh tạo thêm những ý thức đối thể nữa, để những chúng sinh thân tôi luôn được thăng hoa, tiến hóa cùng vũ trụ càn khôn.
🌸 Bổn Nguyên đã chỉ cho tôi thấy rằng: TỪNG LỜI NÓI nơi chính ta đều có sự liên kết chặt chẽ cùng Ý NIỆM, và vì vậy mà dung chứa tính cách tâm ý thức chính ta.
Tôi từng có nhân duyên xem bệnh cho một anh thanh niên, cũng vừa là bài học để tôi trải nghiệm mà thực biết tác động của ý thức đối thể tới thân người, sinh ra bệnh tật như thế nào. Anh ấy thường bị đau bụng, thỉnh thoảng đi siêu âm thì thấy mình bị tụ máu. Người lại gầy gò, ốm yếu xanh xao. Anh cũng là người tu đạo nên anh được cho biết trong giấc mơ, có người đang đào bới ngay trong ruột mình.
Tôi đi vào thân anh và Bổn Nguyên cho tôi thấy trong hệ tiêu hóa nơi anh có chứa những chúng sinh, được sinh ra từ tính cách tâm ý thức đối thể nơi chính anh, được hình tượng hóa thành HÀNG ĐÀN KIẾN LỬA, đó cũng chính là NGUYÊN NHÂN GỐC RỄ khiến thân người anh hay bị đau bụng, viêm lở bởi thiếu hụt năng lượng.
Đặc tính kiến lửa là thích sống bầy đàn mà đào hang làm tổ, rất thích ngọt ngào, nhưng nếu ai đụng đến mình thì liền quay sang cắn đốt, không chỉ một con mà cả đàn sẽ bu lại tấn công.
Đàn kiến ấy là hình tướng những chúng sinh mà tính cách tâm thức anh không ngừng sinh tạo, rồi dùng chính năng lượng mình để nuôi dưỡng chúng. Vì dân số đông, nên chúng vẫn thường xuyên đào hang làm tổ, mở rộng lãnh thổ trong ruột anh, hệt như anh đã từng mơ thấy ai đó luôn đào bới trong ruột mình.
Qua sự hướng dẫn, dần dần anh đã nhận ra đó chính là tính cách tâm ý thức đối thể mà chính anh vẫn sinh tạo hàng ngày. Anh ưa thích người khác nói lời ngọt ngào với mình, khen mình, nhưng lại liền sinh tâm BỰC TỨC, SÂN GIẬN. Một phần anh phát ra những ý nghĩ, LỜI NÓI phán xét người, khi người làm trái ý mình, chê mình, đụng chạm đến lòng tự ái mình, phần khác thì ôm chặt những niệm sân giận ấy vào người.
Thêm nữa, anh là người tu đạo nên luôn nói đạo lý rồi cho nó là ý đúng, liền thấy người không như ý ấy, thì nói người sai. Anh nói lời ái ngữ, làm việc thiện nguyện giúp người khó khăn, rồi khuyến tấn họ tu hành theo cái lý đạo ấy; để rồi khi anh thấy những điều ngược lại: người nói lời chói tai anh, làm những hành động trái với những đạo lý đúng đắn nơi anh, thế là sinh tâm sân giận, buồn bực. Nhưng anh không dám biểu lộ thành lời, vì sợ đánh mất hình ảnh tốt đẹp của người tu đạo nơi anh trong lòng mọi người.
Thế là các tâm ý thức đối thể sân giận, bực tức, khó chịu mang tính cách đàn kiến lửa ấy luôn được anh sản sinh, tích lũy âm thầm tạo nên đàn đàn chúng sinh nơi hệ tiêu hóa anh, để rồi ngày đêm nó đào bới khoét sâu, đục thủng dạ dày, đường ruột, làm chúng bị tổn thương tụ máu mà bòn rút năng lượng nơi anh mà anh chẳng biết. Bảo sao cứ đi chữa bệnh một thời gian là lại bị lại. Bởi chữa bệnh trên thân vật lý chỉ là chữa cái ngọn, trong khi cái gốc là tâm ý thức đối thể nơi chính mình vẫn luôn không ngừng sinh tạo.
* Qua những gì tôi được Bổn Nguyên cho biết về anh, tôi cũng chợt nhận ra đó cũng chính là tâm ý thức đối thể nơi chính tôi. Bản ngã nơi tôi trước kia cũng giống như nơi anh vậy, tôi cũng đã từng nhăn nhó, khó chịu và sinh ra những ý niệm, lời nói không hay về phía đối phương, khi họ đụng chạm đến quyền lợi và tự ái nơi tôi. Rồi cứ tiếp tục giữ những niệm sân giận ấy vào lòng mà sinh bệnh bao tử.
Đây quả thực là một bài học đắt giá. Vì vậy tôi luôn TƯ DUY PHẢN TỈNH CHÍNH MÌNH mà nhận diện tâm thức đối thể ấy nơi chính tôi, để không tăng trưởng bản ngã si mê, không vô tội vạ phóng những Ý NIỆM, LỜI NÓI về phía đối phương. Từ đó tôi không trói buộc tôi và người - ấy là vừa HẠI NGƯỜI, vừa HẠI CẢ CHÍNH MÌNH chẳng nhìn thấu chân thật tướng các pháp nơi chính mình, tự hại mình u mê, bệnh tật.
Bổn Nguyên dạy tôi rằng, ta chỉ có thể giúp người hiểu chính mình khi ta THẤU RÕ TÍNH CÁCH TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ CHÍNH TA. Do vậy, việc duy nhất mà tôi phải làm là nương vào các pháp đối thể để tôi tư duy phản tỉnh mà HIỂU RÕ TÍNH CÁCH CHÚNG SINH nơi tâm thức tôi; lúc ấy tôi mới hiểu rõ tính cách chúng sinh nơi người, mà giúp người hiểu về nó nơi người, để giải quyết mọi vấn nạn do chúng tạo ra mà thăng hoa tiến hóa.
🌼 Không chỉ có lời nói, mà Bổn Nguyên còn chỉ cho tôi thấy, cả HÌNH ẢNH cũng có thể giam giữ tâm thức chính tôi.
Tôi vẫn luôn gặp tâm thức người đã mất thông qua họ tên và hình ảnh chính họ. Con người thường luôn bấu víu vào hình ảnh, thân xác và những thứ thân thuộc lúc còn sống nên khi chết đi, tâm ý thức thường mắc kẹt lại nơi hình ảnh, thân xác và những thứ thân thuộc mà ở mãi nơi ấy cho đến khi mọi thứ ấy tan hoại, thì bám vào tàn tro, vào đất mà làm sinh linh nơi ấy.
Để cho ta biết, mỗi hình ảnh hay những thứ thân thuộc nơi ta đều chứa đựng tâm thức chính ta. Càng bấu víu, bám chấp bao nhiêu thì sự si mê tạo nên sự trói buộc tâm thức ta vào cảnh sắc vật chất càng sâu dày. Nó khiến ta chẳng thể tỏ thấu bản chất SẮC TƯỚNG (cảnh sắc, vật chất, hay thân ta…) là luôn thay đổi, dịch chuyển, tan hoại trong từng sát na. Bởi lẽ tất cả sắc tướng được tạo ra chỉ là để cho tâm thức ta trải nghiệm và học hỏi mà thăng hoa tiến hóa. Nhưng ta lại si mê bám víu vào nó để nó TRÓI BUỘC ta mà loanh quanh, luẩn quẩn, chẳng thể GIẢI THOÁT.
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC, nhân duyên sắp đặt khiến tôi gặp một người, và biết được kiếp trước ông làm nghề pháp sư, rất giỏi thần thông và từng được người đời tôn kính.
Trong tiền kiếp làm pháp sư, ông đã từng luyện rất nhiều bùa, thu phục các tâm thức bị mắc kẹt làm binh gọi là âm binh, nhốt họ trong các lá bùa, trong các bức tượng, hình nhân…rồi điều khiển họ theo ý nơi người cần mình giúp. Ông làm vậy là đang can thiệp nhân quả, hại những âm linh yếu thế hơn, đem quyền năng thần thông tu luyện được mà chuyển trắng thành đen. Ông cứ nghĩ làm vậy là giúp người, nhưng chẳng ngờ đồng việc giúp người này thì lại can thiệp nhân quả giữa họ mà hại người kia.
Ông cứ vô tư luyện bùa, nuôi âm binh để dụng nó; để rồi khiến các tâm thức chủ nợ trong mối tương quan nhân quả không đòi được nợ, quay sang oán giận ông mà ông chẳng biết. Ông cũng cứ vô tư luyện thần thông để phục vụ cho cái tôi si mê nhân ngã rồi tự cho rằng mình tài giỏi…
Mà ông không hề biết: cứ mỗi một con bùa được vẽ ra, là ông đang dùng chính tâm thức mình vẽ lên chữ ấy để thu phục và TRÓI BUỘC các âm binh vào nó, BẢN CHẤT là ông ĐANG NHỐT TÂM THỨC CHÍNH ÔNG vào con chữ vẽ trên bùa, và dụng âm binh làm thần lực để cho chữ ấy được phát huy tác dụng đúng như ý nghĩa chính nó, mà bảo hộ người nhờ ông can thiệp nhân quả giúp họ.
Ngày này qua tháng nọ, ông cứ dùng năng lượng chính mình, rút dần rút mòn xương tủy chính mình để nuôi tâm linh nơi các chữ bùa ông vẽ và âm binh ông thu phục; mỗi một lần vận hành thần thông để điều binh khiển tướng làm theo ý ông đều là bòn rút tinh lực, máu huyết chính mình… mà ông chẳng hề biết.
Các tâm thức chủ nợ bị ông dùng bùa chú, âm binh ngăn cản việc đòi nợ của họ, họ đành ngậm đắng nuốt cay chờ đợi cho đến lúc thần thông ông suy kiệt, phước đức ông tan hoại, chúng nhập vào thân tâm ông, trở thành chúng sinh trong thân người ông mà cấu xé thân ông, khiến ông sinh bệnh tật, khổ nạn triền miên mà ông chẳng biết. Rồi ông chết đi, thân xác tiêu tan.
Đến kiếp làm người này nhân quả xưa chưa giải quyết xong liền theo duyên mà ập đến, chủ nợ xưa đàn đàn lũ lũ tiếp tục kéo nhau tới đòi nợ ông. Khiến cho ông từ khi mới sinh ra đã ốm đau dặt dẹo, tai ương liên tiếp bủa vây. Nhưng ông hoàn toàn đã QUÊN SẠCH QUÁ KHỨ kiếp trước mình đã gieo nhân gì, lại cứ tiếp tục sinh ý thức đối thể than trách số phận, than trách ông trời sao quá bất công với mình. Cứ như vậy mà tạo nên cái vòng luẩn quẩn, nhân ý thức đối thể quá khứ và hiện tại ông đang gieo tạo chồng chất quấn xoay vòng nhau, để rồi cả đời cứ lặn ngụp trong bãi sình lầy tâm thức đối thể, bế tắc chẳng thể ngóc đầu lên nổi.
Đến khi thọ đủ khổ, thì có thiện hữu tri thức đến khai sáng, nương vào các cảnh thấy được nơi thân ông mà cho biết nhân quả ông đã từng gieo nơi tâm thức mình. Lúc đó, ông mới thấu tỏ được bản chất nhân quả về tâm thức đối thể vận hành nơi bùa chú, thần thông. Ông chân thành quay đầu hối lỗi, kêu gọi các tâm ý thức ông đã từng gieo tạo nơi vẽ bùa, nuôi binh quy tập về sám hối, hợp nhất tâm ý thức đối thể mà CỞI TRÓI cho những tâm thức bị nhốt ấy, cũng là GIẢI THOÁT cho tâm thức chính mình.
* Mỗi lần đi hành pháp, là lại một lần tôi được dạy những bài học đáng quý về tâm thức chính tôi. Qua mỗi trải nghiệm, tôi thấu tỏ rằng bản thân cần THẬN TRỌNG với tất cả những gì mình sinh tạo - cho dù đó chỉ đơn giản là một hình ảnh, một nét vẽ… Tôi tạo ra nó xong, tôi thỏa mãn những gì nó hiện diện rồi xóa bỏ nó, để mình không bám chấp vào nó mà tăng trưởng bản ngã si mê. Để từ đó tôi không sinh ra tâm ý thức đối thể, KHÔNG TẠO RA SỰ TRÓI BUỘC giữa tôi và người, cũng là để không làm hại người, không hại chính chúng sinh thân tôi bị mắc kẹt lại mà làm thân vong hồn, trôi sông lạc chợ, chẳng biết đường về nhà.
🌷 Ngay cả BÀI VIẾT cũng không phải là ngoại lệ, cũng đều chứa đựng tâm thức chính ta. Và câu chuyện sau đây cũng đã cho tôi một bài học đáng quý nhắc nhở tôi luôn cẩn trọng với những gì mình sinh tạo.
Trong một chuyến đi chơi cùng gia đình nơi Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Buổi tối khi tôi thiền, các tâm linh ở vùng đất đầy nắng gió này đã tìm đến tôi và cho tôi thấy quang cảnh thế giới tâm linh ở đây đầy sự âm u kỳ bí.
Nhân duyên đưa đẩy khiến linh thức tôi tới Lầu Ông Hoàng, và nhận ra nơi đây lưu giữ các tâm thức si tình bị mắc kẹt của một thi sĩ nổi tiếng của Việt Nam. Ông đã chết trẻ vì căn bệnh phong.
Ông đã chôn chặt trong lòng câu chuyện tình yêu dang dở với một cô gái bằng những ý niệm bi ai, oán trách số phận. Qua những năm tháng bị cách ly, sống côi cút chống chọi với bệnh tật, nhà thơ liên tục viết ra những vần thơ tình da diết, gởi trọn tất cả tâm tư nhớ nhung, trách hờn, yêu thương hướng về đối thể là người con gái mà ông yêu.
Những vần thơ ấy lay động biết bao con tim si tình của khắp các độc giả Việt Nam và cứ thế lan truyền làm cho biết bao độc giả cả nước phải tốn giấy mực bình phẩm, ca ngợi và tiếc nuối cho mối tình có duyên không phận ấy.
Mà đâu biết rằng tâm thức si tình nơi nhà thơ đã sinh tạo ra biết bao nhiêu TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ, gởi gắm trong từng con chữ viết trên giấy. Để rồi từng con chữ ấy lại tương tác cùng các độc giả mà tiếp tục sinh tạo nên những tâm thức đối thể. Dần dần chúng tạo nên những chuỗi dài dích dắc xoay quanh đề tài tình yêu, mà tạo nên sự TRÓI BUỘC LẪN NHAU, chỉ để phô bày các ý niệm mặc định nói về ông, về cuộc tình có duyên không phận giữa ông và cô gái.
Do vậy tâm ý thức ông đã BỊ BÁM VÍU vào từng câu, từng chữ do mình viết ra và thành đối thể BỊ TRÓI BUỘC vào những bài viết mà người đời nói về tình yêu của ông. Để rồi tâm thức bấu víu vào những ý niệm nơi cuộc tình ấy đã tạo nên vòng xoáy tâm ý thức, khiến ông mãi luẩn quẩn hơn 80 năm qua, xoay vòng trong sự u mê, bế tắc, khổ đau chẳng thế giải thoát.
Dưới sự hướng dẫn của Cô, kết hợp với sự tư duy thấu tỏ nhân quả quá khứ mà Bổn Nguyên dạy cho tôi, tôi đã nói cho tâm thức ông thấu tỏ rằng: Thân người mà ông có khi xưa vốn dĩ là vai diễn để ông trả những món nợ tình mà những kiếp trước người ta đã yêu ông, nhưng ông không thỏa mãn họ nên ông nợ tình yêu nơi họ.
Còn cô gái ông từng yêu tha thiết chẳng qua cũng chỉ là món nợ tình mà ông đã từng nợ, giờ cô ấy đến đòi ông trả nợ cho cô ấy mà thôi. Và căn bệnh nan y khiến ông côi cút sống trong cô đơn, tủi hờn, mà đắm chìm trong sự dằn vặt tình yêu, cũng là cách để ông thọ khổ mà trả món nợ nhân sinh do quá khứ mình đã gieo tạo.
Chúng sinh hận tình tìm đến đòi ông trả món nợ xưa, để rồi khiến cho tâm thức ông luôn bị đè nặng bởi sự u uất của những chúng sinh ấy mà viết nên những dòng thơ. Đó là tâm thức chúng sinh tác động để ông viết thành thơ, chứ CHẲNG PHẢI LÀ LINH THỨC ÔNG VIẾT. Nhưng ông đã NHẬN LẦM đó là tâm thức chính mình mà BỊ NÓ TRÓI BUỘC, ở mãi nơi ấy, làm nô lệ cho nó dẫn dắt. Khiến cho cả ông và cả những chúng sinh ấy cứ mãi luẩn quẩn trong bóng tối u mê của sự sân giận, nuối tiếc nơi tình yêu tạo nên những vần thơ.
Nhân duyên khiến tôi đến Phan Thiết, cũng là duyên đã đủ để các tâm thức mắc kẹt trong tình yêu nơi ông được giải thoát về lại nơi nó sinh ra. Tôi đã cho ông thấu tỏ sự thật, rằng ông ĐÃ TRẢ SÒNG PHẲNG món nợ kiếp xưa bằng cả tinh thần và thân xác bệnh tật nơi chính ông. Để ông thấu tỏ dứt khoát mà GIẢI THOÁT TÂM Ý THỨC MẮC KẸT CHÍNH MÌNH, để tất cả chúng sinh nơi tâm thức ông đều được thăng hoa sang một cảnh giới hạnh phúc tốt đẹp hơn.
* Giờ đây, tôi vẫn luôn thầm cảm ơn ông, vì ông đã lấy cả cuộc đời của mình để làm bằng chứng rõ nét mà răn dạy chính tôi, rằng tất cả những gì tôi sinh tạo, rồi ôm ấp, bấu víu vào nó cũng đều chứa đựng tâm thức đối thể nơi chính tôi. Tôi CÀNG BÁM CHẤP vào nó thì sẽ càng tạo ra SỰ TRÓI BUỘC khiến tâm thức tôi luẩn quẩn chẳng thể giải thoát.
Thân con người được tạo thành từ các chúng sinh, ta cùng với các chúng sinh nơi thân ta luôn đồng hành để học tập mỗi ngày. Khi ta THẤU TỎ MỌI GỐC RỄ BẢN CHẤT muôn pháp, thì ta sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng nhau đi lên, cùng thăng hoa tiến hóa. Ngược lại, khi ta si mê thì sẽ bị chúng sinh dẫn dắt và kéo tất cả cùng đi xuống, để cứ luân hồi học lại mãi.
Vì vậy, ta LUÔN CẨN TRỌNG với tất cả những gì ta sinh tạo: từng ý nghĩ, ngôn từ, hình ảnh, bài viết… vì một khi đã chứa đựng ý thức đối thể chính ta, thì đó chính là tâm thức nơi ta bị mắc kẹt lại. Ta luôn tư duy phản tỉnh chính mình để tỏ thấu tâm ý thức đối thể mà hợp nhất nó về tánh thể rỗng không, để luôn giữ vững chánh nhân làm người mà tiếp tục tiến trình thăng hoa tiến hóa.
Con người thân tướng khác nhau
Nhưng đồng tâm thức tạo thành quả nhân
Nhân gieo tỏ thấu ý ta
Hiệp nhứt đối thể tạo nhân làm người
Nhân gieo chẳng tỏ ý ta
Tách rời đối thể phá nhân làm người
Thân thì ở tại nơi này
Ý thì một nẻo gởi nơi tâm người
Khiến cho bất nhất thân tâm
Thân người nhưng lại tâm không phải người
Một quê hai cảnh đối nhau
Làm cho mệt mỏi hao mòn sắc thân
Bệnh tật từ ấy phát sanh
Làm ta đau khổ ,trí tâm lưu mờ
Đến khi tỏ thấu thân này
Đều là tập hợp muôn vàn chúng sanh
Ấy là hiệp nhứt thân tâm
Viên tròn nhân quả làm người trí minh.

25. NHỮNG GÌ TA BÁM CHẤP, ĐỀU TRÓI BUỘC TÂM THỨC CHÍNH TA (PHẦN 2: THÂN TƯỚNG, DANH VỌNG, ĐỒ VẬT, QUYỀN LỢI)
Bổn Nguyên luôn cho tôi biết rằng: cuộc đời là một vai diễn để ta tương tác với đối thể trong mối tương quan nhân quả và nhận ra bài học để hoàn thiện mình. Bản chất Cha Trời, Mẹ Đất và cha mẹ thế gian cho ta thân người là để ta học tập, bởi chỉ có thân người là tập hợp chúng sinh đối thể, có sự tương tác với đối thể thì mới soi chiếu được bổn tâm chính mình. Để cho ta luôn giữ vững chánh nhân làm người mà thăng hoa tiến hóa, từ “Nhân” (người) đến “Đại Nhân”(Thánh) đến “Thượng Nhân” (Bồ Tát, Tiên), rồi “Vô Thượng Nhân” (Phật) là tròn nhân làm người toàn chơn, toàn bích.
Thế nhưng cuộc sống cứ cuốn ta đi, khiến ta vì ham mê sắc tướng mà từ khi nào đánh mất đi mục đích chính mình có mặt trên thế gian này. Để rồi ta lại bám víu vào thân tướng, danh vọng, đồ vật, quyền lợi… sinh ra bao nhiêu tâm thức bị mắc kẹt nằm đó đời đời kiếp kiếp, mà không biết rằng bản chất chúng chỉ là PHƯƠNG TIỆN – CÓ SINH CÓ DIỆT - cũng chỉ là để ta dụng nó mà học tập, tìm về chính mình mà thôi.
🌷🌷🌷TÂM THỨC MẮC KẸT VÌ BÁM CHẤP VÀO THÂN TƯỚNG
Một ngày nọ trời gió rất to, trùng với ngày mà gia đình tôi tổ chức đi đảo qua đêm. Buổi tối tôi bị say tàu nên ngủ sớm, đến khoảng 3h sáng thì bỗng thức giấc như có ai đó đánh thức mình.
Bên ngoài cửa kính, gió giật ầm ầm, cây cối ngả nghiêng hệt như có bão. Có chút gì đó rùng mình trước cảnh tượng ấy, tôi đã nhắm mắt thiền. TRỜI ĐẤT ƠI! Các phần tâm linh trên đảo đã bu kín người tôi từ lúc nào. Hẳn là họ đã đủ duyên giải thoát, nên mới tìm tới để hợp nhất cùng tôi để cùng nhau niệm Phật. Họ chui vào người tôi rồi lần lượt được soi tỏ gốc rễ u mê mà giải thoát.
Mọi chuyện cứ diễn ra cho đến khi nơi tâm trí tôi bỗng tái hiện lại khung cảnh sân chùa trên đảo mà chiều qua tôi có ghé thăm. Tái hiện lại góc nhìn mà tôi đã nhìn từ trong chùa ra ngoài sân, khi ấy chẳng có ai cả. Nhưng lần này thì hiện nguyên HÌNH HÀI một cô gái mặc bộ váy màu trắng, có mái tóc đen dài ngang eo, đôi mắt thâm đen nhưng toàn thân trắng bệt và ướt sũng.
Tôi đã giật mình khi nhìn thấy hình ảnh ấy, bởi lẽ xưa nay tôi gặp tâm thức người chỉ là thể khí, vậy mà hôm nay lại thấy nguyên cả hình người. Đó thực sự là một trong những hình ảnh khiến tôi vẫn còn bị ám ảnh cho tới bây giờ.
Cô ấy cứ thế tiến lại gần, hệt như tôi đang xem một bộ phim kinh dị trên tivi, lúc đó tôi sợ lắm! Nhưng rồi lại tự trấn an mình bằng ý nghĩ rằng đây cũng chỉ là một tâm thức bị mắc kẹt như những người khác. Rồi tôi hiểu ra sự sợ hãi, là vì tâm phân biệt CÓ HÌNH TƯỚNG hay KHÔNG CÓ HÌNH TƯỚNG, tâm phân biệt tạo nên sợ hãi đánh mất BÌNH ĐẲNG bổn tâm nơi tôi.
Tôi dần từ sợ chuyển sang thương, vượt thoát sợ hãi bằng sự hiểu biết về đối thể, và mở lòng để cô ấy hợp nhất vào người mình.
Tôi biết được rằng khi còn sống, đó là một cô gái rất đẹp và trong lòng chứa quá nhiều muộn phiền dẫn đến bế tắc mà chết nơi biển cả. Tôi niệm rất lâu nhưng tâm thức u uất, bế tắc nơi cô ấy mãi không thể hóa khí đi được... Lúc sau tôi chuyển sang nói chuyện tâm tình với cô ấy, rằng hãy bỏ hết oán hận đi, buông bỏ hết những bám chấp xác thân mà tự cởi trói cho mình. Còn ôm ấp, còn bấu víu sẽ chỉ tự hại mình nằm mãi trong bóng tối u mê, cô hãy cho mình cơ hội có cuộc sống tươi sáng hơn. Sau đó tôi liên tục niệm Phật, lúc sau cô ấy mới hóa khí mà giải thoát…
Cô ấy đi rồi mà trong lòng tôi vẫn còn suy nghĩ vẩn vơ, tại sao tâm thức này lại có nguyên hình người?
Sau này khi được Cô hướng dẫn, tôi mới thấu tỏ bài học mà Bổn Nguyên dạy cho tôi thông qua sắc tướng thị hiện nơi cô ấy. Tôi hiểu ra rằng tâm thức hình người là tâm thức người đã mất có sự u uất, oan kết sâu dày nên mãi chẳng thể siêu thoát. Để hiện đủ sắc tướng một con người, ý niệm phải đủ năng lực mới tạo được nó. Ví như khi ta vẽ một con người, ý niệm phải khởi tạo lần từng bộ phận, rồi hoàn thiện đường cong và các chi tiết mà ra vóc dáng con người. Ý niệm BÁM CHẤP VÀO SẮC TƯỚNG THÂN HÌNH NGƯỜI nên khi thị hiện sẽ mang sắc tướng ấy. Cô ấy là một cô gái đẹp, nên sự bám chấp sâu dày về thân xác suốt cả một đời người, huân tập lại tạo thành thói quen và tính cách, để rồi khi mất thân, lại không chấp nhận được điều ấy, mà cứ tiếp tục bám chấp, để rồi tự hại mình làm cô hồn dưới biển chẳng thể giải thoát.
Không chỉ có mình cô ấy, mà trong quá trình hành pháp, tôi thấy PHẦN LỚN các tâm thức bị mắc kẹt đều là vì BÁM CHẤP VÀO THÂN XÁC. Cho dù là những người quyền cao chức trọng, cho đến người thường, tất cả tâm thức bám chấp giống hệt nhau. Tùy theo mức độ bám chấp sâu cạn, rộng hẹp mà tâm thức hiển bày hình tướng bám chấp khác nhau, khi là MIẾNG THỊT ĐEN THUI BÈO NHÈO, hay MIẾNG GỖ CỨNG NGẮC…, nằm sâu dưới lòng đất, bị bao phủ bởi bóng tối u minh.
Tôi cũng gặp rất nhiều tâm thức thân xác đã tan hoại rồi, nhưng vẫn bám chấp vào hình tướng, lại tiếp tục đi kiếm những BỨC TƯỢNG có hình hài người, hay tượng Phật mà chui vào đó ẩn nấp, xem đó là nhà, là thân mình, tự trói mình vào tượng để rồi chẳng thể giải thoát.
Cô ấy và tất cả những tâm thức bám chấp vào thân tướng mà tôi gặp, luôn là tấm gương để tôi SOI TỎ CHÍNH MÌNH.
Tôi hiểu rằng thân người tôi đang có thực sự ĐÁNG QUÝ, bao nhiêu tâm linh bên ngoài đều thèm khát được có mà không được. Bởi vì chỉ có thân người thì tôi mới có sự tương tác với các đối thể để học tập mà tiến hóa. Tôi biết quý trọng thân người chính tôi, nhưng không phải vì thế mà suốt ngày trau chuốt làm đẹp, hay tập trung ăn uống bồi bổ cơ thể... Sự quý trọng nơi tôi thể hiện bằng cách TRANH THỦ THỜI GIAN để học tập, làm việc để trau dồi kiến thức, kinh nghiệm, TINH TẤN TU HÀNH, luôn tư duy phản tỉnh chính mình để giữ vững chánh nhân làm người. Thời gian cho một kiếp người này quá ngắn ngủi, nên thân người tôi đang có THỰC SỰ ĐÁNG QUÝ.
Và tôi hiểu rằng SẮC TƯỚNG CÓ SINH ẮT CÓ DIỆT. Hiểu vậy, tâm thức tôi KHÔNG BÁM CHẤP vào thân xác này, không phiền não khi thân xác bắt đầu lão hóa theo thời gian. Nhờ luôn tư duy phản tỉnh ý niệm đối thể, tôi không huân tập cho mình thói quen hình thành tính cách, để khi chết đi, tâm thức tôi UNG DUNG TỰ TẠI đi mây về gió theo ý nơi tôi, không bị mắc kẹt nơi thân tướng.
Tôi KHÔNG BÁM CHẤP VÀO THÂN TƯỚNG cho dù là thân tướng mình, hay thân tướng người. Ngày trước, tôi thường thấy mệt mỏi, như chịu cực hình khi chị bảo mẫu nghỉ làm, và tôi phải vừa làm việc vừa tự chăm con. Sau này tôi thấy rằng: hóa ra bấy lâu nay mình đang tự TRÓI BUỘC bản thân vào cô ấy. Thấu tỏ được điều ấy tôi đã tự tháo gỡ, không còn để mình bị lệ thuộc vào cô ấy nữa. Việc cô ấy nghỉ là bình thường và tôi xem đó là cơ hội để mình tâm toàn ý chăm sóc con, thấu hiểu con.
Tôi cũng từng hay lo lắng về BỆNH TẬT của tôi và những người xung quanh. Nhưng rồi tôi thấu tỏ rằng bệnh tật chẳng có gì xấu, chẳng qua là bấy lâu nay tôi TỰ TRÓI BUỘC mình vào bệnh tật trên thân tướng mà sinh ra phiền não. Bản chất những căn bệnh chỉ đơn giản là để CƠ THỂ VẬT LÝ chiến đấu với vi khuẩn ngoại xâm mà sinh ra kháng thể, để sau này cơ thể có kinh nghiệm khi gặp lại những vi khuẩn ấy, cũng là để cơ thể khỏe mạnh hơn. Còn trong TÂM LINH thì bản chất bệnh tật được sinh ra từ tâm ý thức đối thể chính mình, và những cơn đau chẳng qua là tâm thức ta đang HỢP NHẤT ĐỐI THỂ mà thôi. Thấu tỏ điều đó tôi cũng không còn để mình bị trói buộc vào bệnh tật trên thân tướng mà đi cầu cứu bác sĩ, thuốc men. Tôi chỉ dùng thuốc khi thực sự thấy cần và không nôn nóng để nhanh hết bệnh.
Trong quá trình hành pháp, tôi cũng không để người bị trói buộc vào thân tướng nơi tôi. Tôi cho họ biết gốc rễ tâm ý thức đối thể sinh ra khổ đau, bế tắc nơi thân họ, rồi trao pháp cho họ tự hành, tự trải nghiệm, và khi có thắc mắc thì cứ tự do hỏi tôi. Người có nghe lời mà hành pháp hay không, đó là tự ý thức mỗi người, tôi không hề ràng buộc. Tôi không để người dựa dẫm, bấu víu vào mình mà tự tạo ra thòng lọng thắt cổ tôi và người, đó là vừa hại mình, vừa hại người.
Tôi luôn tư duy phản tỉnh chính mình để nhận diện những trói buộc giữa tôi và thân tướng, để cuộc đời tôi chẳng lệ thuộc cảm xúc, tâm trí vào bất kỳ ai, cho dù đó là người thân của mình. Tôi luôn an vui tự tại, không cần trông cậy vào ai để làm mình vui và hạnh phúc. Bởi tôi luôn thấy hạnh phúc, an nhiên trong sự thấu tỏ chính mình.
🌼🌼🌼TÂM THỨC BÁM CHẤP VÀO DANH VỌNG
Con người ta rất dễ vì danh tiếng, địa vị mà đánh mất cuộc sống tự tại chính mình. Có người vì ưa thích những lời khen ngợi, tán dương mà mượn tiền tạo dựng cảnh nhà đồ sộ, tạo dựng danh tiếng địa vị xã hội, để rồi lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Hay có người vì muốn tỏ ra mình là người mạnh mẽ, thành đạt mà tự đeo mặt nạ, không sống thật với chính mình...
Tôi đã từng chứng kiến câu chuyện về một bác gần nhà tôi. Bác từng là người quyền cao chức trọng, nay đã nghỉ hưu. Bác rất khó chịu, nên ai cũng ngại tiếp xúc, đôi khi ngay cả người nhà cũng thấy bác lạnh lùng, độc đoán và sợ làm trái ý bác. Nói chuyện mà nói to, bác sẽ trách là ồn ào, vô lễ. Bác rất thích người khác khen mình tài giỏi, mưu lược, và dễ dàng nổi sân giận khi người làm trái ý...
Một ngày họp dòng họ, vợ chồng bác có ghé thăm nhà thờ ở Quảng Ngãi. Và một vị lớn tuổi trong họ đã nhập vô người bác mà theo về Nha Trang. Kể từ đó bác thay đổi hoàn toàn, khiến cả nhà ai cũng vừa buồn cười vừa sợ.
Bác thay đổi từ một người lạnh lùng, độc đoán thành một người THA THIẾT YÊU THƯƠNG. Bác vừa từ Quảng Ngãi về Nha Trang đã vội nói tài xế chở thẳng vào Sài Gòn chỉ để gặp con gái trong vài phút, nói vẻn vẹn “ba thương con, ba nhớ con” rồi lại lên xe quay về lại Nha Trang. Về nhà bác nhất quyết không chịu vào nhà, mà bắt lúc thì vợ, lúc thì con đứng trước cổng chụp hình, quay phim cho bác từ 8h đến 11h đêm. Bác cười toe toét hết cỡ, bắt mỗi lần chụp hình là phải nói thật to: “Một, hai, ba…Con yêu ba!”, hay “Một, hai ba… Em yêu anh!” Nói nhỏ là bác không duyệt, bắt phải chụp đi chụp lại, nói đi, nói lại mãi suốt mấy tiếng đồng hồ.
Suốt vài ngày sau đó thì bác uống bia thả ga (trước kia bác rất kỹ chuyện ăn uống vì bác hay bị đau bao tử). Bác yêu cầu tất cả mọi người trong nhà phải nói lớn lên, chứ đừng có sợ bác la mà nói lí nhí nữa. Rồi mỗi lần nói là bác toàn thêm vô vài từ như: “vợ yêu quý của anh”, “con yêu quý của ba”. Bác dành cả ngày để tưới cây với tâm trạng hân hoan, huýt sáo yêu đời. Rồi bác nói rằng bản thân luôn biết xưa giờ người đời toàn chửi sau lưng bác, nói bác khùng nhưng mà “I don’’t care” (Tôi không quan tâm). “Ngoài kia người ta nói gì mình thì mặc kệ, cứ I don’t care là xong. Sống là phải sống thật với chính mình, ai chửi ai nói gì mình thì cứ I don’t care, mình biết mình là được.”
Bác cứ mát mát vậy mấy ngày, bác gái có nói tôi xem giùm chứ bác thay đổi vậy thấy sợ quá. Nhưng nhìn bác tôi thấy rất vui, và cảm giác bác đang thực sự hạnh phúc. Xưa giờ có bao giờ bác sống thật với chính mình đâu, vì luôn khoác trên mình cái vỏ bọc là người quyền cao chức trọng, có địa vị trong xã hội mà tỏ ra lạnh lùng, độc đoán, vô tình với tất cả mọi người, kể cả người thân. Cuộc sống xưa kia của bác hoàn toàn thiếu TÌNH THƯƠNG YÊU.
Vị nhập vào người bác là người trong dòng họ, và đang giúp bác TÌM LẠI CHÍNH MÌNH. Bắt người nhà chụp hình, quay phim cũng chỉ là để lưu lại khoảnh khắc ấy, để nhắc bác luôn nhớ về nó mà sửa đổi bản thân, sống yêu thương, hòa đồng, sống đúng con người thật chính mình mà thôi. Cũng là vị ấy đã đủ duyên giải thoát nên nhân duyên đưa đẩy để người gặp tôi mà quy về Quang Minh Như Lai Phật Tổ.
Sau khi vị ấy đi, vài ngày sau bác quay trở lại bình thường và chẳng nhớ gì. Nhưng khi xem những tấm hình chụp, video lưu lại, và qua lời kể của người thân thì bác lại bật cười khoái chí. Đúng là một bài học thật ý nghĩa dành cho bác và cũng là cho chính tôi.
Trong quá khứ, tôi cũng đã từng cứ chăm chăm vào công việc để có danh tiếng, mà bỏ bê không quan tâm tới gia đình, người thân. Tôi đã từng ích kỷ, vô tình, chẳng còn quan tâm tới cảm xúc của họ, bởi con ma danh vọng vẫn luôn dẫn dắt, điều khiển tâm trí chính tôi. Từ đó kéo theo cả chuỗi vấn đề khiến gia đình tôi lục đục, xào xáo.
Qua chuyện của bác, và sự thức tỉnh nơi chính tôi sau thời gian dài si mê trong danh vọng, giờ đây tôi luôn làm chủ cuộc đời mình. Tôi chẳng còn quan tâm tới lời khen và sợ tiếng cười chê mà tạo ra lớp vỏ bọc hoàn hảo. Cuộc đời cứ chăm chăm vào những thứ hư ảo, sẽ chỉ làm ta đánh mất chính bổn tâm mình, che mờ hết tâm yêu thương trong trái tim ta.
Cũng bởi từ khi hành pháp mà tôi có khả năng nhìn thấu tâm thức người, xuyên qua những lớp vỏ bọc hoàn hảo. Nhất là qua những gì người hay đăng trên mạng xã hội.
Mạng xã hội là PHƯƠNG TIỆN để con người kết nối, tương tác lẫn nhau; đồng thời cũng là PHÁP PHƯƠNG TIỆN để nhân sinh trải nghiệm mà học tập bài học về bản ngã si mê nơi con người. Trên mạng đa số ai cũng đeo mặt nạ mà diễn kịch, gởi gắm ước mơ, mong cầu nơi chính mình vào từng bài đăng để rồi trói buộc tâm mình vào đó. Người có trục trặc gia đình thì thường diễn cảnh hạnh phúc; người bế tắc trong công việc thì hay diễn cảnh tự tin, thành công; người không có tiền thì thích diễn cảnh du lịch sang chảnh; người hay nói đạo lý, hay nói về lẽ sống thì cuộc sống tràn ngập bế tắc; người không tự tin với diện mạo chính mình thì thích dùng ứng dụng chỉnh sửa để trở thành nam thanh nữ tú… Người cứ vô tư gởi gắm tâm thức mình vào những bài đăng, chăm chăm đi tìm kiếm những lời khen ngợi để rồi trói chặt tâm hồn mình vào đó, rồi bị trói luôn vào các thiết bị điện tử… mà xa rời cuộc sống thực tại.
Tôi thấu tỏ các vấn đề nơi tâm thức người bởi quá khứ tôi cũng từng như vậy, vẫn luôn đeo trên mình những chiếc mặt nạ hoàn hảo mà chẳng hề nhận ra. Chiếc mặt nạ ấy là do TÂM THỨC TÔI SINH RA, bởi cái tâm thích được khen và sợ những tiếng cười chê, chỉ trích… để rồi kéo theo hệ lụy là một loạt bế tắc chồng chất nơi cuộc sống thực tại. Cho đến khi được Cô hướng dẫn quay về bổn tâm mình, tôi mới nhận diện được những chiếc MẶT NẠ DANH VỌNG khủng khiếp ấy, và tôi đã QUYẾT ĐỊNH LỘT BỎ nó mà SỐNG THẬT VỚI CHÍNH MÌNH. Giờ đây tôi hoàn toàn làm chủ cuộc đời chính tôi.
🌸🌸🌸TÂM THỨC BỊ MẮC KẸT VÌ BÁM CHẤP VÀO ĐỒ VẬT
Gia đình tôi có một tiệm cầm đồ nho nhỏ. Một buổi chiều, tôi đã nói với chồng mình rằng không biết hôm nay Bổn Nguyên mang đến cho tôi bài học gì.
Vừa dứt lời thì có một bà cụ tới. Bà ấy 86 tuổi rồi và có vẻ đã hơi bị lẫn. Trước kia bà có tới cầm một chiếc nhẫn và một sợi dây chuyền vàng, nhưng cách đây 1 năm vì cần tiền mà bà đã chuộc về để đi bán. Nhưng khoảng 6 tháng nay bà cứ hay lui tới, tháng nào cũng tới 2-3 lần để hỏi chuộc cái nhẫn và sợi dây chuyền ấy về. Lần nào chồng tôi cũng giải thích với bà rất rõ ràng là bà đã chuộc rồi.
Lần này, bà tới với ánh mắt tỏ rõ hờn giận, tiếc nuối, khi tôi nói rằng bà đã chuộc rồi chứ không còn ở đây nữa. Bà cứ quả quyết rằng món đồ ấy vẫn còn ở trong tiệm nhà tôi và năn nỉ được chuộc về. Khi ấy tôi nghĩ rằng hẳn trong tâm thức bà đang có sự bế tắc gì đó về món đồ ấy nên quyết định để tối thiền xem vấn đề này ra sao.
Tối hôm ấy, tôi thiền hướng về tâm thức bà để tìm hiểu nguyên nhân. TRỜI ĐẤT ƠI! Tôi thấy kéo ra cả một luồng khí đen đặc quánh, khí đen ấy vô cùng tức giận, khí cuồn cuộn mà chạy vòng vòng. Và sự tức giận nơi tâm thức ấy luôn hướng về phía tiệm nhà tôi. Đó là tâm thức của ÔNG – CHỒNG CỦA BÀ.
Lúc đó tôi đã vô cùng bất ngờ vì cứ đinh ninh rằng đó là vấn đề của bà, nhưng ôi không, nó còn là vấn đề trong tâm thức ông nữa! Ông giận lắm, vì cho rằng gia đình tôi giữ món đồ đó mà không chịu trả, làn khí tức giận chạy tới, chạy lui luôn xáo động mà không thể tĩnh lặng.
Nhìn thấy ông vậy, tôi biết có giải thích kiểu gì cũng vô ích nên chỉ nhất tâm niệm Phật. Niệm dần dần thì ông cũng dịu lại mà chịu đứng im. Lúc ấy tôi mới nói với ông rằng: “Gia đình cháu xưa nay làm ăn chân thật, có sao nói vậy không nói dối ông bà nửa lời. Cách đây 1 năm bà đã lấy món đồ đó về và đem bán. Cháu cũng có nghe nói là hình như lúc đó ông bệnh, nên cháu nghĩ có thể bà đã lấy bán nó để chữa bệnh cho ông. Nhưng có lẽ bà đã không nói cho ông biết. Lời cháu nói là chân thật, bà đã chuộc từ lâu và đồ không còn ở nhà cháu nữa.”
Bỗng nhiên, tôi bắt đầu rùng mình, tôi thấy tâm thức ông hiện nơi làn khí rung lên bần bật nơi thân tôi, và hai hàng nước mắt tôi bắt đầu chảy dài. Tôi biết rằng đó là ông đang khóc, ông đã hiểu ra sự thật.
“Ông ơi, cháu biết rằng ông rất quý nó, nhưng nó chỉ là vật chất nằm bên ngoài tâm thức ông. Giờ ông đã mất rồi cũng không thể mang nó theo được. Chính vì cứ mãi nghĩ về nó mà tạo ra sự TRÓI BUỘC khiến ông không thể giải thoát, đó là bấy lâu nay ông đang tự làm khổ mình. Ông nghe lời cháu, hãy mở lòng mình và cùng cháu niệm Phật, tự cởi trói cho mình để tới nơi hạnh phúc hơn.”
Tôi cứ nói chuyện với ông trong nước mắt như thế, rồi bỗng nhiên tôi không còn khóc nữa, hai ông cháu đã cùng nhau niệm Phật. Và rồi ông hóa khí sáng mà giải thoát về Quang Minh Như Lai Phật Tổ. Ông đã đi rất thanh thản và nhẹ nhõm, không còn để sự bám chấp làm hại mình khổ đau nữa.
Giải thoát cho tâm thức ông xong thì vài ngày sau bà có sang. Sau một hồi hỏi chuyện thì tôi được biết đó là đồ kỷ niệm đám cười thời xưa của hai người, hồi xưa ông bà quý nó lắm, đeo bà cũng không dám đeo vì sợ mất, sợ cũ. Vì kẹt tiền quá nên bà mới đứt ruột đem ra cầm. Hóa ra vì đây là đồ kỷ niệm mà tâm thức ông bà ôm ấp, trân quý để rồi BÁM CHẤP vào nó quá nặng, nên có sự tương đồng tâm thức, mà ông luôn tác ý cho bà để bà đi lấy nó về. Tôi đã nhìn sâu vào mắt và giải thích cho bà hiểu hệt như khi giải thích cho ông. Tôi thấy mắt bà long lanh ngấn lệ. Bà nói với tôi rằng bà nhớ rồi, bà đã đem bán nó, và nghẹn ngào chào từ biệt. Từ đó bà không còn tới nhà tôi để hỏi về hai món đồ ấy nữa…
Sau câu chuyện về ông bà, tôi đã dành thời gian dài để ngẫm nghĩ.
Nếu tôi không đi sâu vào tìm hiểu tâm thức nơi bà, thì sẽ chẳng nhận được câu chuyện cảm động đến thế, mà chỉ nghĩ đơn thuần đây là một bà lão bị lẫn và toàn mang lại phiền toái; để rồi cái gốc không được giải thoát nên chuyện cứ lặp đi lặp lại hoài.
Đôi khi ta cứ nghĩ rằng đó là người làm, nhưng thực ra lại là tâm thức người khác đang dẫn dắt, tác ý để họ làm điều đó. Từ đó tôi rút ra, rằng mình không bao giờ được đánh giá hay phán xét người khác qua những gì hiển bày trên thân tướng họ. Bởi đó chưa chắc là linh thức họ làm, mà còn có thể là chúng sinh làm. Mọi sự đánh giá hay phán xét người chỉ làm che mờ đi TÌNH YÊU THƯƠNG ta dành cho họ, để rồi ta chỉ có những định kiến về họ mà chẳng thể thực giúp được gì, lại chỉ làm tăng trưởng bản ngã si mê nơi chính ta mà thôi.
Tôi cũng hiểu rằng mọi chuyện rắc rối đến với tôi, cũng chỉ là để tôi dụng TÂM YÊU THƯƠNG mà tỏ thấu gốc rễ vấn đề bế tắc sinh ra từ tâm thức người, để vừa giúp người tháo gỡ và vừa rút ra bài học cho chính mình.
Câu chuyện cũng dạy tôi có thái độ chừng mực về những vật kỷ niệm. Tôi quý trọng những vật kỷ niệm, nhưng không phải vì thế mà suốt ngày ôm ấp, ngắm nhìn, chứ không dám dùng. Đối với tôi, mọi vật chất có trong cuộc đời này đều là PHƯƠNG TIỆN để học tập và rèn luyện mà nhận diện bổn tâm chính mình, chứ không phải vì bám chấp mà tự trói buộc tâm thức mình vào nó. Nên tất cả tình cảm, thái độ nơi tôi đều chỉ dừng lại ở mức vừa đủ mà thôi.
Sau thời gian dài luyện tập và thường hằng tư duy phản tỉnh nhận diện tâm ý thức đối thể chính mình trong cuộc sống, tôi cũng dần tháo gỡ những trói buộc mà trước giờ tôi vô tình lập ra đối với những phương tiện vật chất. Ví như tôi không còn bị phụ thuộc vào máy tính mà thường tự tính nhẩm, nên dần dần tôi tính toán rất nhanh. Trong công việc cầm đồ, tôi biến đôi tay, mắt và bộ não mình thay thế cái máy đếm tiền và phân biệt tiền giả trong tích tắc. Tôi cố gắng học thuộc lòng tất cả những thứ cần ghi nhớ để không phụ thuộc vào các phương tiện ghi chép… hay làm việc gì cũng đều có những phương án dự phòng, và xử lý vấn đề một cách linh hoạt chứ không bám chấp cứng nhắc vào một phương án mà mong cầu nó thành công. Hay tôi có thể thiền bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào trong ngày, cũng không cần nhắm mắt hay ngồi kiết già cho tịnh tâm. Tôi hành pháp Giải Thoát mà không cần nhìn thấy chúng sinh hóa khí giải thoát cũng biết là họ giải thoát.
Nói cách khác, tôi hoàn toàn không bị trói buộc vào bất cứ thứ gì, hoàn toàn TỰ DO TỰ TẠI. Vật chất chỉ là PHÁP PHƯƠNG TIỆN, điều quan trọng là ta luôn chăm chỉ rèn luyện tư duy, để tâm thức ta không ngừng thăng hoa tiến hóa.
🍀🍀🍀TÂM THỨC BỊ MẮC KẸT VÌ BÁM CHẤP VÀO QUYỀN LỢI
Kể từ khi dụng được năng lượng Bổn Nguyên để kết nối các tâm thức, tôi đi tới bất cứ nơi đâu cũng đều là nhân duyên đưa đẩy, để tôi hành pháp mà soi tỏ gốc rễ si mê cho chúng sinh nơi ấy.
Trong một chuyến gia đình đi biển Dốc Lết, huyện Ninh Hòa, chúng tôi có ở lại tại một khách sạn gần một nhà máy đóng tàu lớn và khu công nghiệp, gần đó cũng có một làng chài. Ấy vậy mà qua giấc mơ khi tôi ngủ, các phần tâm linh đã tìm đến mà kể tôi nghe chuyện quá khứ, về những điều uất ức đã xảy ra với họ.
Họ dẫn tôi về nhà họ, những ngôi nhà nhỏ đơn sơ chẳng có đồ đạc gì nhiều, giống như nhà được cấp tái định cư. Họ chỉ cho tôi coi bàn thờ của họ trong những ngôi nhà đó. Rồi tâm thức họ tái hiện lại cho tôi thấy cảnh tạo nên nỗi uất ức khiến tâm thức họ bị kẹt, bằng việc dẫn tôi ra một vùng đất rộng lớn bị san bằng phẳng trống trơn, trên đó có hàng loạt những chiếc xe múc, xe ủi, xe cần cẩu, những cọc trụ sắt của công trình đang xây dựng… Họ cho tôi thấy cảnh dân làng chạy ra la ó, phản bác, khóc lóc đòi kiện nhà máy. Rồi những người bên phía nhà máy kéo tới uy hiếp, đe dọa, họ bỏ chạy vô nhà và cảm thấy sợ hãi…
Qua sự hướng dẫn của Cô, tôi thấu tỏ được rằng họ đã chỉ cho tôi cảnh họ đấu tranh đòi QUYỀN LỢI với công ty, là đơn vị hợp pháp xây dựng trên nền đất cũ nơi họ từng ở. Tâm thức họ vì không thỏa mãn sự đền bù rồi BÁM CHẤP vào đất cũ mà sinh cảnh tranh đấu ấy, đến tận khi chết đi, biến mình thành oan hồn uổng tử nơi cái đất ấy mà chẳng thể siêu thoát.
Họ đấu tranh bởi họ đâu biết rằng mảnh đất mà mình làm chủ, đều nằm trong nhân duyên của chính mảnh đất đó với mình. Duyên đến mình có nó, ở với nó, duyên đi thì mình mất nó, và sẽ có một mảnh đất khác thay thế. Đến và đi, được và mất nơi đất cát, nhà cửa và các pháp hữu tướng phương tiện đều luôn nằm trong nhân duyên giữa nó và ta. Ta muốn giá trị mảnh đất theo ý mình, nhưng phước đức mình chỉ đủ để được số tiền nhỏ từ miếng đất đó, mình đòi hơn nữa mới tạo nên sự tranh đấu làm tổn hại tinh thần, hao mòn sức khỏe, sức cùng lực kiệt, khiến phước đức giữ mạng không còn mà dẫn đến mất mạng.
Con người cũng vì TÂM THAM MUỐN ngăn che, khiến ta chẳng nhận ra sự thật rằng: Người ta đến lấy miếng đất này đều đổi lại cho ta miếng đất tương ưng với phước đức nơi ta, và sự sống nơi ta theo sự đổi mới ấy mà phát triển đi lên. Chưa bao giờ sự phát triển lại khiến cho sự sống nơi ta thụt lùi khi ta luôn chấp nhận mà thuận theo mọi thay đổi đến với ta. Chỉ có tâm tham muốn nơi ta lúc nào cũng thấy chẳng đủ, chẳng thuận theo sự thay đổi mà tạo nên cảnh sống thụt lùi nơi ta. Để rồi ôm cái tâm tham muốn chẳng được như ý ấy mà chết đi, làm hồn ma uất hận, lạc lõng đau khổ trong bóng tối u minh chẳng thể giải thoát.
Tôi đã thiền và tới gặp những tâm thức còn bám chấp vào đất cũ ở khu vực nhà máy ấy. Tôi thấy tâm thức họ quy tụ lại, thị hiện hình ảnh MỘT CÁI CÂY TO bám chặt trên đất, có nhiều nhánh và lá nhưng làm bằng SẮT ĐEN THUI - thể hiện tâm thức u mê, tối đen mà bám chấp sâu dày, cứng ngắc không thể có gió nào làm đung đưa nổi cành lá.
Tôi đã tới giải thích cho họ hiểu cặn kẽ vấn đề nơi tâm thức họ và nói họ nương theo ánh sáng tánh thể thanh tịnh A Di Đà Phật mà soi tỏ những lầm mê. Cái cây kết tụ mọi tâm thức u mê, đen tối, uất hận ấy dần lung lay, rồi cuối cùng thì bật tung cả gốc. Bao nhiêu tâm ý thức bám chấp thành rễ sâu dày ăn sâu vào lòng đất, được nhổ theo cây mà tan hoại, chuyển hóa kéo thành dải ánh sáng giải thoát bay lên về Ánh Quang Minh Như Lai Phật Tổ.
Quyền sở hữu đất đai, nhà cửa cũng chỉ là thứ ngoài thân, đều là phương tiện để ta có nơi ăn, chốn ngủ, che chở thân ta tránh mưa nắng, giông bão; cũng chỉ là nơi để ta sinh hoạt và học tập từ sự tương tác cùng đối thể trong cuộc sống chính ta. Nhà này hết duyên ở thì chuyển qua nhà khác, tâm ta là chính ta, thân ta ở đâu tâm ta ở đó. Tại sao lại vì sự bám chấp vào một nơi không còn đủ duyên nữa, mà tách tâm ra khỏi thân ta, để rồi thân một nơi, tâm một nẻo; mà sinh ra bế tắc, phiền não, làm mất năng lượng mà sinh bệnh tật.
Tôi cũng từng chứng kiến nhiều người vì tư lợi cá nhân mà đi đút lót, hối lộ hay làm việc trái với lương tâm. Chỉ vì tham muốn đoạt được quyền lợi mà tự trói buộc mình vào nó, để rồi bị nó dẫn dắt mà si mê tạo nghiệp...
Khi ta tự trói buộc mình vào những thứ bên ngoài, ta sẽ cứ mãi xoay vần trong bóng tối u mê, đó là ngục tù do chính tâm thức mình tạo ra, mà dần PHÁ NÁT CHÁNH NHÂN LÀM NGƯỜI của chính mình – khiến ta SẼ MẤT THÂN NGƯỜI nơi kiếp vị lai, mà làm gián đoạn bài học đang học, chính là làm GIÁN ĐOẠN SỰ THĂNG HOA TIẾN HÓA nhân làm người nơi chính ta.
Bản chất sự sống nơi ta đơn giản chỉ là đi học, và đối thể đến với ta theo nhân duyên. Khi ta thường hằng tư duy phản tỉnh, sẽ liền nhận ra gốc rễ vấn đề và học được bài học gì đó cho chính mình qua những vấn đề ấy.
BẢN CHẤT THÌ ĐƠN GIẢN, nhưng khi thị hiện sắc tướng thì nó biến hóa ra muôn hình vạn trạng. Khi ta không tỉnh táo và để bị chúng sinh hình tướng dẫn dắt, chúng sẽ che mờ trí tuệ nơi ta, khiến ta không thể nhận ra chân thật tướng, là bản chất muôn pháp nơi sự sống chính ta. Từ đó ta dần đánh mất chính mình, phá nát chánh nhân làm người nơi cuộc sống chính ta.
Tôi thấu tỏ rằng tất cả những gì tôi tạo ra, và bám chấp càng sâu dày vào nó bao nhiêu, thì càng trói chặt tâm thức tôi bấy nhiêu, khiến cho cuộc sống nơi tôi không thể an nhiên, tự tại mà có trí tuệ sáng suốt. Tôi luôn ghi nhớ rằng: thân tướng, danh vọng, đồ vật hay quyền lợi… chẳng qua cũng chỉ là PHƯƠNG TIỆN, để tôi dụng nó một cách hiệu quả nhằm phục vụ cho tiến trình học tập, thăng hoa, tiến hóa nhân làm người nơi chính tôi mà thôi.

26. NHỮNG GÌ TA BÁM CHẤP, ĐỀU TRÓI BUỘC TÂM THỨC CHÍNH TA (PHẦN 3: THẦN THÔNG, CẢNH SẮC)

Trong quá trình vừa học vừa hành pháp, tôi đã được Bổn Nguyên cho trải nghiệm và thấu tỏ rất nhiều vấn đề nơi TÂM THỨC NGƯỜI TU HÀNH PHÁT TRIỂN THẦN THÔNG. Tôi hiểu rằng khi vận hành thần thông, họ hao tốn rất nhiều năng lượng, để rồi không còn đủ năng lượng để nuôi dưỡng tuệ giác, khiến cuộc đời BỊ TRÓI BUỘC bởi si mê vào các pháp đối thể, rồi cứ ở trong cái vòng luẩn quẩn si mê nhân ngã không thể nhận ra bổn tâm mình mà giải thoát. Suy cho cùng, đó cũng chính là pháp họ tạo ra để tự trải nghiệm. Và Bổn Nguyên vận hành pháp CÓ SINH ẮT CÓ DIỆT, để nhân sinh rút ra bài học từ pháp ấy mà thôi.
🌼🌼 Tôi từng làm việc tâm linh với một người, và biết ông ấy là linh vật của trời xuống nhân gian để trải nghiệm muôn pháp thế gian mà học hỏi tinh túy trời đất, để thăng hoa tiến hóa. Bởi là người tu hành nhiều kiếp chỉ để phát triển thần lực các căn, lập niệm “không” làm cảnh giới để phát triển năng lực tu hành mở được thiên nhãn, để rồi dùng mắt ấy chỉ để thấy người tu hành thấp kém hơn mình mà sinh tâm THAM MUỐN ĐÒI KHAI SÁNG cho người.
Bản thân ông vì lập niệm không là cảnh giới cư ngụ, nên luôn đem thấy biết bản chất mà các bậc tiền bối đi trước tỏ ngộ, làm sự hiểu biết chính mình, tạo nên tâm ý thức nhị nguyên nơi chính mình, lại tách ra làm đôi - nửa cho người, nửa cho mình - rồi cho rằng tánh thể bất nhị không hai, Phật như Ma, có như không... Tôi biết ông vẫn hay lên các trang mạng chia sẻ những điều mà bản thân ông không thực chứng về chân lý Bổn Nguyên, và cho rằng mình từ trời xuống để răn dạy nhân sinh.
* Cũng là trong sự vận hành của nhân duyên, ông ấy vào trang cá nhân của tôi, mục đích để khai sáng cho tôi, nhưng không đạt được mục đích thì ông sinh tâm PHÁN XÉT rằng tôi ngã mạn. Ông dùng bản ngã chính mình để nhìn người, nên tất yếu cũng liền cho rằng người ngã mạn và tuyên bố sẽ NGẮT KẾT NỐI TÔI VỚI BỔN NGUYÊN.
Ông ấy rất giỏi thần thông, và đạt được năng lực quy tụ tâm thức chúng sinh về mình để tạo thành THẦN LỰC. Bởi tài giỏi nên bản ngã khiến ông ấy trở nên ngang tàng, tới mức tưởng tri điên đảo rằng: ông là người nắm quyền vận hành trời đất. Ông muốn ngắt là ngắt được sao, khi mà bản chất thấy biết Bổn Nguyên luôn thường hằng nơi tâm thức mỗi nhân sinh. Ông lại đi tách rời Bổn Nguyên khỏi nhân sinh, biến Bổn Nguyên thành đối thể rồi đòi ngắt kết nối. Ông nói người nhưng lại thành tự hiển bày tri kiến mà tố cáo thấy biết tưởng tri điên đảo nơi chính ông, ấy là ông tự tạo thòng lọng mà siết cổ chính mình.
Tôi đã dùng bản chất thấy biết Bổn Nguyên để VẠCH TRẦN SỰ TƯỞNG TRI ĐIÊN ĐẢO nơi ông ấy, Bổn Nguyên đã cho tôi thấu tỏ cái bản chất “ngắt kết nối” mà xưa giờ ông luôn tự hào, dùng nó để sát phạt người tu đạo. Đó chỉ là ông DÙNG THẦN LỰC điều khiển chúng sinh quy tụ làm theo ý muốn nơi ông.
Theo sự điều khiển nơi ông, chúng sinh tới nơi tôi, hiện hình tướng như một CON BẠCH TUỘC bám chặt lấy thiên nhãn tôi với mục đích tạo ra những CẢNH ẢO MỘNG, vậy mà ông tưởng tri rằng việc làm này là ngắt kết nối. Tôi giữ định lực nơi hơi thở và dùng TÌNH YÊU THƯƠNG NIỆM PHẬT, nhờ năng lượng thanh tịnh A Di Đà Phật soi sáng tâm thức si mê chúng sinh trong hình tướng con bạch tuộc ấy, chúng liền hóa khí giải thoát. Tiếp tục, ông lại liên tiếp phun đầy KHÍ ĐEN DÀY ĐẶC BAO PHỦ lấy tôi và liên hoàn tạo ra lớp lớp cảnh ảo mộng tâm thức. Bản chất cũng chỉ là để tôi chạy theo cảnh mà lạc trong mộng mị, rối loạn tâm trí mà đánh mất ĐỊNH LỰC TỈNH GIÁC.
Thần lực ảo mộng nơi ông chỉ có thể sát phạt được những người tu đạo không chân thật, tạo nên cái tôi si mê nhân ngã như ông, nhưng yếu hơn ông; để rồi bị thần lực ông thu phục mà hút năng lượng, phá tan thành quả tu hành như ông nói. Nhưng thần lực ảo mộng ấy làm sao có thể qua được THẤY BIẾT CHÂN THẬT BỔN NGUYÊN, những gì ông phô diễn cũng chỉ là múa rìu qua mắt thợ mà thôi. Tôi vẫn định trong từng hơi thở, dùng TÌNH YÊU THƯƠNG NIỆM PHẬT, nhờ thanh tịnh lực A Di Đà Phật soi sáng tâm thức si mê chúng sinh. Chúng sinh tự di chuyển theo lực thanh tịnh Bổn Nguyên mà hóa thành ánh sáng giải thoát.
* Với thần lực trong tay, ông ấy tưởng tri rằng xưa nay ông nắm quyền sinh sát, muốn ngắt kết nối Bổn Nguyên với ai thì ngắt. Ông ấy đánh tôi mà không hiểu rằng, đó là Bổn Nguyên đang vận hành để ông đánh lại chính mình - ông ngắt kết nối tôi với Bổn Nguyên, cũng chính là ông bị ngăn che giác thể mà ngắt kết nối chính ông với Bổn Nguyên.
Bởi ông chưa đủ tuệ giác để biết rằng, những việc xưa giờ mình làm - là dùng thần lực để thu phục kẻ yếu – BẢN CHẤT đều là do bổn Nguyên vận hành thấy biết nơi ông, mà thu hút quy tụ tâm ý thức chúng sinh về ông làm một mối. Để khi đủ duyên, theo tâm thức muốn khai sáng người nơi ông, sẽ bị Bổn Nguyên thông qua người ông muốn khai sáng, mà khai sáng giải thoát tận cùng cho tất cả chúng sinh ấy. Đồng thời Bổn Nguyên THU HỒI tất cả thần thông ông tạo được từ việc tu hành, để ông nhận ra được GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC về thần thông mà rõ thấu bài học ông đang học.
* TÂM SI MÊ ĐẠI NGÃ NƠI CHÍNH TA GIỐNG NHƯ MỘT CON RẮN KHỔNG LỒ. Ta tu hành có chút thành quả liền đem tâm đó đòi đi độ hóa, khai sáng chúng sinh. Xem thành quả tu hành của chúng sinh như những con rắn nhỏ xíu, liền muốn thu hồi, tiêu diệt thành quả ấy mà nuốt vào bụng. Để rồi bị chúng sinh là con rắn nhỏ ấy quay ngược lại mà cắn vào bụng mình, đục từ trong bụng đục ra khiến cho rắn lớn mất mạng.
Cũng giống như ông dùng thần lực điều khiển chúng sinh tạo khí đen bao phủ lấy thân tôi trong lớp lớp ảo mộng, để rồi tôi từ trong lớp khí đen bao phủ ấy, dụng thanh tịnh lực A Di Đà Phật soi sáng si mê tâm thức chúng sinh, khiến chúng sinh quy về Bổn Nguyên giải thoát. Thế là lực thần thông do tâm thức đại si mê nhân ngã nơi ông vận hành bị Bổn Nguyên thu hồi, và tâm thức đại si mê nhân ngã ấy cũng theo lực thần thông mà quy về Bổn Nguyên.
* THẦN THÔNG KHÔNG PHẢI LÀ CẢNH GIỚI TỐI CAO CỦA NGƯỜI TU ĐẠO, để rồi xem nó là sự vi diệu mà tự mãn. Thần thông CHỈ LÀ NĂNG LỰC THU GOM CHÚNG SINH TẠO NÊN THẦN LỰC điều khiển chúng sinh bị thu gom vận hành theo ý mình, mà phụng sự cho cái tôi si mê nhân ngã. Thần thông có sinh ắt có diệt, để ta thấu tỏ bài học về bản chất thần thông mà thực biết bổn tâm ta nơi thần thông mang lại mà thôi.
Chân lý nhân quả nhất như vận hành thấy biết nhân sinh theo nhân trổ quả, để tôi gặp người ngang tàng, hống hách, mới là lực lượng đối thể để GIÚP tôi tư duy phản tỉnh mà thấu tỏ rằng: Bổn Nguyên đang dạy tôi phát triển TÌNH YÊU THƯƠNG VÔ ĐỐI mà giữ định lực, mới sinh TUỆ GIÁC THẤY BIẾT CHÂN THẬT mà thấu tỏ bản chất muôn pháp.
Nơi tình yêu thương vô đối ấy, mọi niệm sân hận, trách móc về đối thể nơi tôi tan biến. Mọi ác niệm nơi tôi về người đều chuyển hóa thành TÌNH THƯƠNG YÊU. Nhờ có lực lượng đối thể tôi mới thấu tỏ tâm ý thức đối thể là những ý niệm sân hận, ác độc nơi tôi về người, mà chuyển hóa nó thành tình yêu thương nơi tôi; và tâm thức hống hách, kiêu mạn nơi người cũng cảm nhận năng lượng yêu thương ấy mà GIẢI THOÁT.
🌸🌸 Một câu chuyện khác, tôi từng có nhân duyên xem bệnh cho một người quá khứ cũng tu đạo rất giỏi. Ông nhìn vào mắt người đối diện là có thể biết họ đang nghĩ gì. Thần thông ấy khiến ông nhìn thấu được cái tâm gian manh dối trá nơi người, để rồi từ đó ông dần trở nên sống khép kín, sợ hãi không dám gần người, bởi THẤY AI CŨNG XẤU XA.
Chính cái niệm đối thể mà ông thấy người ấy đã bám sâu vào tâm thức ông, tạo nên định kiến khiến ông không thể thấy người bằng những ý niệm tốt đẹp khác. Chính định kiến ấy là tâm ý thức chúng sinh do ông sinh tạo, và ông dùng năng lượng nơi chính ông để nuôi dưỡng nó cho đến sức tàn lực kiệt mà ông chẳng biết. Cuộc sống ông ấy bế tắc đủ đường: đủ loại bệnh tật dày vò, vợ hay rầy la nổi cáu, công việc không như ý, lại hay gặp xui xẻo, mất mát đủ thứ trong đời sống…
Bởi tâm ông muốn tránh xa cõi đời xấu xa, nhiều phiền muộn, nên trái ngược với cuộc sống thực tại, những GIẤC MƠ nơi ông lại thường hiện cảnh TƯƠI SÁNG, ĐẸP ĐẼ. Hàng đêm, tâm ý thức chúng sinh dùng năng lượng chính ông mà hiện cảnh tạo nên giấc mộng, rồi chúng cuốn ông vào cảnh tiếp nối cảnh mộng mị, khiến ông bị mất năng lượng. Cho nên, dạo gần đây mắt ông càng ngày càng mờ đục, cơ thể mệt mỏi, yếu ớt, qua một đêm ngủ là không thể dậy nổi.
Ông thường mơ thấy mình được ngao du đó đây, cảnh sắc núi rừng, cây cối hùng vĩ. Từng mơ thấy những bông hoa sen sáng trên trời sà xuống đưa mình bay lên cao, hay mơ thấy mình hái được những bông hoa sen ấy. Nhưng lạ thay sen nhìn thì sáng, thì đẹp mà ở trên tay ông liền hóa đen thui. Hay ông từng mơ thấy được dẫn đi lên chốn thần tiên, có cung điện nguy nga, có những đám mây trắng bồng bềnh…
Cái tâm ưa thích CẢNH SẮC ấy khiến cho ông suốt ngày cứ đắm chìm vào mộng mị mà xa rời, thờ ơ với cuộc sống hiện tại, khiến cuộc sống ngày càng bế tắc, cùng cực. Ông cứ ngao du thơ thẩn như thế trong giấc mơ, nhưng lại thường bị một MẶT TRỜI TO NHƯ CÁI THÚNG chiếu sáng rực rỡ cản đường, và mỗi lần vậy là ông bị đẩy bật ra mà tỉnh giấc. Ông sinh tâm bực bội với mặt trời vì luôn phá đám những giấc mộng thần tiên nơi ông. Mà không biết rằng đó là Bổn Nguyên đang dạy ông, giúp ông thoát khỏi ảo mộng.
Bổn Nguyên LUÔN BẢO HỘ người chân thật tu hành như ông, để ông thực trải nghiệm tâm thức ông nơi muôn pháp do chính ông tạo ra, để sớm thức tỉnh, thấu tỏ tâm ý thức đối thể nơi ông để hợp nhất nó, mà GIỮ CHÁNH NHÂN LÀM NGƯỜI. Ấy là ta gieo nhân bất thối – chính là tâm bồ đề không còn luân hồi nơi minh tường, sáng suốt tâm ý thức đối thể chính mình - mà hòa cùng tiến hóa vũ trụ càn khôn, hoàn thiện nhân làm người toàn chơn, toàn bích. Nhưng sự si mê cảnh sắc nơi ông quá sâu dày, mãi không nhận ra được những bài học Bổn Nguyên dạy ông.
* Cho đến khi ông gặp tôi, và được cho biết rằng Bổn Nguyên vẫn luôn thường hằng nơi thấy biết, mà vận hành cuộc sống chính ông theo nhân trổ quả, để ông học bài học nhân quả nhất như. Từ đó rõ biết tâm mình nơi nhân quả ấy mà giúp nó giải thoát, thăng hoa. Ông mới ngộ ra sự si mê trước kia nơi chính mình, rằng: ông tưởng tri nhân quả là do trời đất hay con người mang lại cho ông, nên ông chỉ biết than vãn, trách móc trời đất, số phận sao để ông cứ xui xẻo, bệnh tật dày vò làm khô kiệt, héo mòn xác thân.
Tối đó, tôi nói ông thiền SÁM HỐI CÁI TÂM SI MÊ CẢNH VÀ THẦN THÔNG nơi mình, tôi đã dùng thấy biết bản chất Bổn Nguyên nơi muôn pháp tạo từ tâm ý thức đối thể, để VẠCH TRẦN NHỮNG ẢO MỘNG mà tâm trí ông sinh tạo. Vì ông ưa thích cảnh đẹp, ưa thích sắc tướng nên Bổn Nguyên thị hiện hình ảnh tương ưng với tâm thức ông, mà cho ông nhận ra bài học thực tế trên thân mình.
Tôi nói cho ông biết rằng: trên mái nhà thân ông có 1 CON NHỆN CÁI đang nằm ấp trứng trên đó, 8 chân nó dài chạm đất mà ôm chặt lấy cái nhà là thân ông. Xung quanh nhà ông TƠ NHỆN GIĂNG CHẰNG CHỊT, bít hết cả lối vào. Trong nhà thì tối om, đen thui u ám. Lời sám hối chân thành nơi ông kết hợp cùng năng lượng thanh tịnh Bổn Nguyên khiến con nhện nhảy phóc lên người tôi rồi hóa khí giải thoát, những tơ nhện giăng kín cửa cũng bị xé toạc ra. Trời ơi, HÀNG ĐÀN, HÀNG ĐÀN NHỆN CON NHIỀU LÚC NHÚC từ trong nhà chạy ra, khiến tôi nhìn thấy thôi đã rợn tóc gáy! Chúng chui hết vào hai mắt tôi khiến tất cả trở nên mờ đục, trắng xóa. Chúng chui đã thì cũng theo lời sám hối niệm Phật rồi cũng hóa khí giải thoát…
Bổn Nguyên còn hiển bày cho tôi thấy tâm thức chúng sinh hiện tướng một lưỡi dao đen thui, sắc nhọn, xuất phát từ mắt ông mà chạy quét xuống hết tất cả lục phủ ngũ tạng trong người ông, khiến bộ phận nào cũng bị tổn thương mà túa máu.
* Con nhện cái đầu đàn và đàn nhện lũ lũ đều do tính ƯA THÍCH THẤY ĐƯỢC TÂM NGƯỜI để người nể phục mình, rồi tu hành chỉ để phát triển năng lực THA TÂM THÔNG thấy biết tâm người. Từ đó tạo nên mạng nhện giăng bẫy ý niệm người, chẳng ngờ những gì ta thấy biết người đều là tâm ý thức đối thể nơi ta sinh tạo, mà tự hại mình sa lưới, dính mắc vào chính lưới mình giăng ra mà che mờ làm đục đôi mắt. Cũng chính năng lực tha tâm thông ấy khiến những ý niệm đối thể xấu xa ông đọc được nơi người và ôm ấp, trở thành lưỡi dao làm tổn thương chính các nội tạng trên thân ông, bảo sao mà ông luôn ốm đau dặt dẹo.
Lại nữa, tính ƯA THÍCH CẢNH GIỚI TƯƠI ĐẸP, và lấy đó làm mục đích hướng đến cho sự tu hành mà tạo nên các ý niệm SI MÊ CẢNH SẮC, niệm này tiếp nối niệm kia mà hiện tướng nhện giăng lưới. Để rồi nó giăng bẫy chính cái tâm ƯA THÍCH CẢNH SẮC nơi ông, khiến cho ông tổn hao tinh lực nuôi dưỡng các mạng lưới ấy. Và ông dùng chính năng lượng mình vận hành tâm ý thức đối thể hiện nên cảnh sắc tốt đẹp trong mơ, để ông ngắm nhìn cho thỏa lòng ưa thích. Theo năm tháng, những tâm thức mang tính cách đàn nhện vẫn luôn không ngừng gia tăng, và ông nuôi nhốt chúng trong chính cơ thể mình.
Ngày ngày, ông tu hành tạo nên năng lượng CHỈ ĐỂ NUÔI DƯỠNG CHÚNG, chúng liên tục sinh ra những cảnh đẹp cho ông ngao du, thích thú trong giấc mơ. Sự hưởng dụng si mê ấy đã làm ông tiêu hao mà mất sạch năng lượng sống, khiến sau mỗi đêm ngủ dậy là người ông mệt mỏi, bơ phờ, không thể dậy nổi. Trong khi đầu ông thì luôn nhớ rõ mồn một từng chi tiết cảnh sắc trong mơ, để rồi lại tiếp tục si mê nó.
Bổn Nguyên liên tục đánh thức ông khỏi giấc mộng qua hình ảnh MẶT TRỜI CHIẾU RỰC RỠ, thì tâm ý thức chúng sinh nơi ông lại bực bội, phản đối vì cho rằng bị cản đường. Khi tôi nói ra bản chất sự thật hiển bày trên thân ông, ông đã thốt lên rằng: “Trời ơi, sao bấy lâu nay tôi không nhận ra đó là Bổn Nguyên đang giúp mình mà sớm dừng lại.” Để rồi mắt ông cứ ngày càng mờ đi, ông cứ thấy những sợi dây trắng vệt vệt trước mắt, giờ ông mới hiểu đó là tơ nhện, thân người ngày càng héo mòn, xác xơ.
* Đêm hôm ấy, sau khi sám hối và giải thoát tâm thức mang tính cách đàn nhện, ông đã bắt đầu nằm mơ mà nhận ra CHÂN THẬT TƯỚNG nơi thân mình. Ông ngước mắt nhìn lên trần nhà thì thấy trần thủng một lỗ to, đó chính là lỗ thủng để ánh sáng chân lý Bổn Nguyên chiếu vào mà soi sáng chân thật tướng cảnh giới nơi thân tâm ông. Ông thấy mình đang ở trong 1 cái nhà vệ sinh BẨN THỈU, TỒI TÀN, HƯ HỎNG, ông nhìn xuống thấy ngón chân mình đen thui dơ dáy… Đó chính là sự thật bệ rạc nơi thân ông, mà trước nay tâm thức chúng sinh đàn nhện tạo ẢO MỘNG ngăn che ông nhận ra chính mình.
Và trong mơ, ông đã tới vòi xả nước mà quyết tâm rửa sạch những vết dơ trên thân người do chính mình sinh tạo. Đó cũng chính là quyết tâm SÁM HỐI, TƯ DUY PHẢN TỈNH mà nhận diện và hợp nhất tâm ý thức đối thể để chúng chuyển hóa thành thấy biết chân thật, mà GIỮ VỮNG CHÁNH NHÂN LÀM NGƯỜI - gieo nhân bất thối để luôn thăng hoa tiến hóa, tròn nhân làm người toàn chơn, toàn bích. Ấy là kim chỉ nam hướng dẫn người tu đạo tại nhân gian, để ta luôn vượt qua mọi thử thách chông gai nơi tâm ý thức đối thể dựng cảnh, mà thẳng tiến trên con đường đạo.
Bổn Nguyên luôn thường hằng nơi thấy biết chính ta, luôn nương theo tâm ý thức đối thể ta sinh tạo nhiều đời mà hiện cảnh tạo nên cuộc sống chính ta, cũng chỉ để ta TƯ DUY PHẢN TỈNH MÀ TỎ THẤU nguyên nhân gốc rễ sinh ra bệnh tật, khổ đau, đen đủi… luôn vây hãm ta. Nhưng ta thường không đủ trí tuệ để rõ thấu nhân quả luôn công minh tuyệt đối - nhân sao ắt quả y vậy mà tạo nên cuộc sống chính ta - nên tâm thức thường si mê mà than trời trách đất, rồi đổ lỗi cho số phận, đổ lỗi cho con người không thương mình. Để rồi mãi bị chính tâm ý thức do mình sinh tạo, quay lại vây hãm, giết chết huệ mạng ta nơi vòng xoáy luân hồi trong lục đạo.
Chỉ khi ta quay trở về tư duy phản tỉnh chính mình, thì ta mới nhận ra, và hiểu được tình yêu thương mà Bổn Nguyên – Cha Trời, Mẹ Đất luôn dành cho ta, luôn bên cạnh mà bảo ban dạy dỗ ta thời thời, khắc khắc mỗi ngày. Con người vì bị thấy biết si mê ngăn che mà chẳng thể nhận ra tình yêu thương ấy, để rồi sinh tâm oán trách số phận, oán trách trời đất, ấy là tự hại mình bế tắc, bệnh tật mà thôi.
* Bổn Nguyên đã dẫn tôi khế nhập vào tâm thức người tu đạo để tôi thấu tỏ rằng, PHẦN LỚN NGƯỜI TU ĐẠO SỢ CẢNH KHỔ NHÂN GIAN, nên MUỐN GIẢI THOÁT đi đến cõi trời, cõi thần tiên, cõi thanh tịnh để hưởng thụ cảnh sung sướng rồi cho là thoát khổ. Nhưng lại không biết rằng, cuộc sống nhân gian với muôn vàn đối thể mới là nơi con người THỰC SỰ TRẢI NGHIỆM. Có đối thể ta mới có thể tư duy phản tỉnh để THẬT BIẾT BỔN TÂM CHÍNH MÌNH NƠI CÁC PHÁP ĐỐI THỂ ẤY, mà học hỏi, nuôi dưỡng chánh nhân làm người để PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ, làm người trưởng thành mà khẳng định năng lực chính mình, là một tế bào khỏe mạnh nơi đại cơ thể vũ trụ càn khôn. Đó cũng chính là xây dựng cho mình một cảnh giới thực tại, luôn an bình, tự tại giữa các pháp hữu tướng luôn biến đổi vô thường sinh diệt chốn nhân gian.
Muốn giải thoát về một cảnh giới tươi đẹp chỉ là TRỐN TRÁNH, là ĐI NGƯỢC với quy luật tiến hóa của vũ trụ, để rồi tự sinh ra những ẢO MỘNG, vọng tưởng là cõi thiên đường. Nhưng chẳng ngờ rằng, khi hưởng hết phước liền theo nhân đã tạo lưu giữ nơi thức a lại da mà tiếp tục vào lục đạo luân hồi sinh tử.
*** Ở ĐÂU THÌ MẶT TRỜI CHÂN LÝ BỔN NGUYÊN CŨNG ĐỀU CHIẾU SÁNG NHƯ NHAU. Chỉ cần ta tinh tấn tu hành, nhận diện tâm ý thức đối thể do chính ta sinh tạo, mà làm tan hoại hết những mây mờ bị thấy biết si mê ngăn che; thì khi ấy, thời thời khắc khắc mặt trời chân lý Bổn Nguyên luôn chiếu sáng tâm thức thấy biết chính ta. Lúc ấy, ta ở cõi người mà an nhiên tự tại, ấy chính là cõi niết bàn Phật ngự, luôn hưởng dụng cảnh giới thần tiên nơi trí tuệ tỏ thấu cảnh vật mang lại, ấy chính là cõi Trời. Đó cũng chính là niết bàn thực tại nơi chính bổn tâm ta, chứ đâu hề xa vời.
Con người tạo cảnh nhân gian
Tạo nên cảnh đạo, sanh tâm so bì.
Cảnh nào cũng tạo từ ta
Lại để cảnh dắt, che mờ bổn tâm.
Tu hành để tỏ chính ta
Ở nơi cảnh sắc hiển bày tâm ta.
Hòa cùng trời đất một nhà
Cảnh giới luân chuyển đời đời thăng hoa.
Ấy cảnh giải thoát tận cùng
Cũng là thực tại niết bàn thế gian.
Tu hành tạo lực thần thông
Chỉ để nuôi dưỡng cái tâm mê mờ.
Thấy người nói bất ý ta
Sanh tâm khai sáng độ người ngu si.
Chúng sanh thu phục theo về
Cũng để phục vụ ý ta mê mờ.
Tạo nên nhân quả nhứt như
Độ người liền tạo cảnh người độ ta.
Lực tịnh Di Đà thậm thâm
Soi tỏ chuyển hóa si mê con người.
Thu hồi thần lực thần thông
Giúp người tỏ mộng, thoát si mê lầm.


27. NHỮNG GÌ TA BÁM CHẤP, ĐỀU TRÓI BUỘC TÂM THỨC CHÍNH TA (PHẦN 4: BẢN CHẤT BÙA NGẢI)

Trước khi bắt đầu hành trình trở về Bổn Nguyên, tôi cứ nghĩ rằng BÙA NGẢI thật đáng sợ. Nhưng về sau, qua những gì Bổn Nguyên cho tôi trải nghiệm và được Cô hướng dẫn, tôi thấu tỏ rằng: BÙA NGẢI chỉ là pháp do Bổn Nguyên tạo theo ý muốn con người - để thông qua mối tương quan xoay vần nơi NHÂN QUẢ - mà NGƯỜI LUYỆN BÙA, NGƯỜI DÙNG BÙA, NGƯỜI BỊ YỂM BÙA và NGƯỜI GIẢI BÙA sẽ được trải nghiệm các mức độ LỢI ÍCH song hành cùng TÁC HẠI, liên đới nhau nơi tâm thức mỗi người.
Để rồi sau cùng, ta nhận ra bài học rằng: những gì ta tạo ra để điều khiển tâm trí người theo ý ta - đều sẽ quay ngược lại mà khống chế tâm trí chính ta khi phước đức đã tận. Đó cũng chính là giúp ta thực chứng bản chất CÓ SINH ẮT CÓ DIỆT nơi muôn pháp, mà chuyển hóa thành TUỆ GIÁC thấy biết chân thật, để thật biết bổn tâm chính ta nơi pháp ấy mà nuôi dưỡng trí tuệ.
🌼🌼Lần đầu tiên tôi trải nghiệm BÀI HỌC SÂU SẮC về bùa ngải chính là từ người chồng của mình. Chồng tôi thời gian ấy mặt mày xám xịt, anh thường xuyên bị đau đầu, nhức mỏi toàn thân. Cứ tối đến là người hoàn toàn mất hết năng lượng. Đó là ở thời kỳ tôi mới học pháp và đang trải nghiệm về năng lượng Bổn Nguyên. Tôi đã truyền năng lượng cho chồng vài lần, nhưng đều nhận thấy năng lượng luôn bị đánh bật ra ngoài.
Một ngày nọ, chồng tôi bị nhức đầu nặng, cả ngày lăn lộn khiến tôi lo lắng vô cùng. Tôi đã thiền và hỏi Bổn Nguyên lý do vì sao lại bị như vậy, và hoàn toàn bất ngờ ở câu trả lời.
Bổn Nguyên đưa tôi đi vào sâu trong cơ thể anh, mọi thứ tối đen, cho đến khi hiện trước mặt tôi là một thứ gì đó như miếng da lỗ lỗ, trên đó có viết mấy chữ ngoằn ngoèo màu đỏ. Tôi hiểu đó là BÙA. Vậy ra, bấy lâu này chồng tôi bị người ta bỏ bùa mà không biết! Đối diện với lá bùa, tôi niệm Nam Mô A Di Đà Phật, Bổn Nguyên dùng lửa tam muội đốt lá bùa ấy đi, đồng thời tôi cũng được cho biết ai là người đã bỏ bùa chồng mình.
Lá bùa bị thiêu đốt, bất ngờ từ trong đó ùa ra một loại khí đen sì, thị hiện hình tướng một con rồng đen hung tợn. Nó lao thẳng tới, phùng mang trợn má và quấn chặt lấy tay tôi. Thời điểm ấy tuệ giác thấu tỏ bản chất nơi tôi chưa phát triển đầy đủ, lại bị tấn công bất ngờ nên tôi rất sợ - và chính sự sợ hãi ấy đã khiến tâm tôi không thể yêu thương được những chúng sinh hung tợn đang tấn công mình - nên tất yếu, tôi không dụng được tình yêu thương Bổn Nguyên để chuyển hóa sự hung tàn mà giúp họ giải thoát. Để rồi họ cứ bám dính lấy tay tôi mà rút năng lượng.
Lúc ấy tôi càng sợ bao nhiêu thì càng niệm Phật, trong đầu thì nghĩ: Bổn Nguyên ơi cứu con! Cô Giác Tuệ ơi cứu con! Tôi cứ niệm Phật mãi, rồi đột nhiên con rồng đen ấy bị đẩy bật ra rồi chạy đi mất hút. Tay mỏi rã rời, toàn thân mệt lã, tôi lăn ra ngủ…
Sáng hôm sau hai mắt tôi đỏ ngầu, đầu óc quay cuồng choáng váng. Tôi gọi cho Cô kể sự tình thì Cô nói rằng: Vì định lực nơi tôi còn yếu, lời niệm Phật nơi tôi chưa đủ lực, trong khi những tâm thức bị giam cầm làm bùa âm binh rất mạnh, nên giai đoạn này tôi cần có trợ lực để hành pháp.
Cô cho tôi biết rằng, Bồ Tát Di Lặc đang vận hành năng lượng Quang Minh Như Lai Phật Tổ soi sáng si mê mà giúp chúng sinh nơi vũ trụ càn khôn đồng quy về chân như bản thể. Tôi phải giúp Bồ Tát Di Lặc thành tựu hạnh nguyện bằng việc niệm “Quang Minh Như Lai Phật Tổ”, để chúng sinh nương ánh quang minh mà GIẢI THOÁT SI MÊ. Cô cho tôi 6 chữ: “QUANG MINH NHƯ LAI PHẬT TỔ” và dặn tôi niệm liên tục trong ngày.
* Quang Minh Như Lai Phật Tổ là ánh sáng tu hành của Bồ Tát Di Lặc. Khi tôi định tâm niệm “Quang Minh Như Lai Phật Tổ”, tôi và ánh sáng quang minh ấy là một thể, ánh sáng ấy soi sáng giúp chúng sinh nơi tôi dần giải thoát si mê, chuyển hóa thành tuệ giác thấy biết minh tường, sáng suốt. Tôi niệm hàng ngày, không chỉ có lúc thiền, mà ngay cả khi tôi làm việc tay chân, tôi cứ niệm “Quang Minh Như Lai Phật Tổ”, xen kẽ “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Quay trở lại câu chuyện, cả ngày hôm ấy, tôi vừa làm việc vừa niệm, và thật ngạc nhiên chỉ một lúc sau, tôi thấy mình hoàn toàn hồi phục năng lượng. Nhưng đến chiều tối, tôi bắt đầu bị mệt trở lại…Tối hôm đó tôi thiền thì thấy: trời đất ơi, những chúng sinh hiện hình tướng con rồng đen ấy lại bám dính lấy tay tôi từ lúc nào, và đang hút năng lượng nơi tôi.
Nhưng lần này, tôi đã THẤU TỎ BẢN CHẤT CỦA BÙA ÂM BINH, rằng: những chúng sinh ấy đều là những TÂM THỨC BỊ MẮC KẸT, Người Luyện Bùa dùng thần thông chiêu dụ và nhốt họ vào những lá bùa để sai khiến, điều khiển. Xét cho cùng thì những chúng sinh ấy hung dữ cũng chỉ vì LÀM THEO LỆNH CHỦ NHÂN và đang THỌ KHỔ CẢNH GIAM CẦM SI MÊ, nên thật ra họ đáng thương hơn đáng sợ. Hiểu vậy, tôi đã mở lòng mình để YÊU THƯƠNG và niệm “Quang Minh Như Lai Phật Tổ”, nguyện ánh sáng Quang Minh Như Lai Phật Tổ soi sáng bóng tối u mê cho họ. Dần dần, những chúng sinh ấy không còn hung dữ, mà chui vào ngực tôi, hóa khí giải thoát.
* Tôi cứ ngỡ rằng việc đã xong, nhưng thật không ngờ, vị THẦY BÙA ngay lập tức đã tới gặp tôi. Đó là LẦN ĐẦU TIÊN ở trong vô vi mà tôi gặp tâm thức một người sống, hơn nữa lại là một vị thầy bùa thần lực cao siêu. Ông ấy đến hiện hình tướng người với cái đầu màu nâu hung dữ, trên tay cầm cây gậy sắt và mặc chiếc áo choàng đen. Ông liên tục vung gậy tạo ra ánh sáng mà bắn vào thiên nhãn, vào ngực tôi. Đầu tôi khi ấy bị co kéo, tim đập dữ dội, cảm giác huyết áp tăng lên chóng mặt, toàn thân như muốn vỡ tung.
Khi ấy, tôi không biết mình cần làm gì vì hoàn toàn bị động, chỉ còn biết NGỒI IM CHỊU TRẬN và NHẤT TÂM NIỆM “QUANG MINH NHƯ LAI PHẬT TỔ”, định tâm trong hơi thở chính mình. Tôi tin rằng TÌNH YÊU THƯƠNG chúng sinh mà tôi gởi gắm trong từng câu niệm sẽ hóa giải tất cả.
Ông ấy vẫn đánh tôi liên tục, nhưng lực càng ngày càng yếu dần. Rồi cũng đến lúc ông không còn tấn công tôi được nữa. Một lúc sau, toàn bộ âm binh nơi ông đều thoát ra, tạo thành lớp lớp khí đen lao vào ngực tôi. Khi ấy tôi chợt hiểu rằng ông đã hoàn toàn mất hết pháp lực, nên không thể giữ âm binh được nữa. Họ được thoát ra và lập tức tìm về phía tôi. Tôi đã đưa những chúng sinh ấy nương theo ánh sáng Quang Minh Như Lai Phật Tổ mà hoàn toàn giải thoát.
Khi họ đi hết, tôi mới có thể nhìn rõ không gian phía trước, hình tướng tâm thức ông từ lúc nào đã hóa thành cục than đen, đang dần nát vụn thành những hạt bụi nhỏ và hoàn toàn biến mất vào hư vô…
Nhìn thấy hình ảnh đó, tôi đã rất lo lắng cho vị thầy bùa, vì thật lòng tôi không hề ghét ông. Tôi hiểu rằng Người Bỏ Bùa chồng tôi đã trả một khoản tiền để ông làm điều đó, ông cũng chỉ là người hành pháp vì kế sinh nhai, nên tôi không hề muốn hại ông. Tôi đã đem câu chuyện và nỗi lòng để tâm sự với Cô và nhận được lời giải đáp cho tất cả thắc mắc nơi chính mình.
* Tôi nhận ra tình yêu Bổn Nguyên dành cho tất cả nhân sinh trên thế gian. Bản chất tôi đi hành pháp, tất cả đều là Bổn Nguyên làm. Người tác ý cho tôi khởi niệm bằng TÌNH YÊU THƯƠNG cho chúng sinh và LÀM TẤT CẢ thông qua pháp thân tôi. Thiên nhãn tôi chỉ chứng kiến những điều Người làm và rút ra bài học cho chính mình. Nên những ai tới đánh tôi, cũng đều là đánh Bổn Nguyên, và cũng đều là tự đánh chính mình - cũng là cách mà Bổn Nguyên THU HỒI THẦN THÔNG, mà kết thúc bài học nơi nhân sinh.
Bổn Nguyên theo ý muốn con người sinh tạo các pháp, để con người trải nghiệm học hỏi. Rồi cũng chính Bổn Nguyên chịu đựng để cho con, chính là pháp đánh mình - Bổn Nguyên thông qua tôi chỉ dùng TÌNH YÊU THƯƠNG mà cảm hóa - để con người nhận ra sai lầm mà chuyển hóa sai lầm thành tuệ giác thấy biết chân thật. Từ đó thấu tỏ chân thật tướng muôn pháp rằng: tất cả những pháp bùa chú, bùa ngải hay thần thông mà ý muốn con người tu hành tạo ra, đều là pháp CÓ SINH DẮT CÓ DIỆT mà giải thoát pháp để thăng hoa, tiến hóa. Hiểu được vậy là kết thúc bài học, không còn bị ý muốn si mê dẫn dắt mà phá nát chánh nhân làm người, chính là kết thúc luân hồi để học bài học ấy. Khi ấy, nước mắt tôi đã rưng rưng… đúng là không ai lao tâm khổ tứ vì con như người mẹ Bổn Nguyên…
🌸🌸 Về sau, có rất nhiều thầy bùa đến đánh tôi, cũng đều là duyên để Bổn Nguyên thu hồi thần lực của họ và giải thoát cho các âm binh. Tuệ giác thấy biết bản chất nơi tôi cũng từ đó mà dần được hoàn thiện - để tôi hoàn toàn thấu tỏ chân thật về bản chất Pháp Bùa Ngải trên thế gian.
Tôi thấu tỏ rằng tiến trình THÀNH TRỤ HOẠI KHÔNG vốn là bản chất muôn pháp, được thực thi qua bốn hạng người:
Người Luyện Bùa và Người Dùng Bùa thực thi BẢN CHẤT THÀNH TRỤ PHÁP BÙA NGẢI nơi dụng thần lực vận hành pháp như ý muốn chính ta.
Người Bị Yểm Bùa và Người Giải Bùa thực thi BẢN CHẤT HOẠI KHÔNG PHÁP BÙA NGẢI, cũng chính là đối thể làm cho pháp lực bùa ngải dần mất hết năng lực mà tan hoại về không. Đó là khi Người Bị Yểm Bùa gặp Người Giải Bùa dụng năng lượng thanh tịnh Bổn Nguyên, mà thu hồi pháp bùa ngải bằng tình yêu thương vượt thoát tâm đối kháng.
* Tôi hiểu ra rằng NGƯỜI LUYỆN BÙA TRÓI BUỘC tâm ý mình vào từng chữ viết trên bùa, hình nhân hay vật nào đó, rồi dùng công năng tu tập tạo nên thần lực THU GOM ÂM BINH, ĐIỀU KHIỂN ÂM BINH theo tâm ý mình, để thỏa mãn tâm tham muốn của Người Dùng Bùa. Tất cả đều là Người Luyện Bùa CAN THIỆP VÀO NHÂN QUẢ giữa Người Dùng Bùa và Người Bị Yểm Bùa.
Tôi đã gặp một số vị thầy bùa tu luyện đạt được năng lực hô mưa gọi gió, rất giỏi thần thông, họ sinh tạo không biết bao nhiêu bùa, đồng thời là bấy nhiêu tâm ý thức đối thể nơi họ gửi gắm vào những lá bùa ấy. Khi thấy mình nắm được quyền sinh sát người trong tay, thấy mình làm được nhiều việc mà người khác không làm được, cũng chính là lúc họ ẢO TƯỞNG SỨC MẠNH nơi cái cái tôi nhân ngã si mê. Để rồi tự nhấn chìm chính mình vào vòng xoáy mê mờ danh ngã, lợi lộc do tâm ý thức đối thể nơi chính mình tạo ra, mà từ từ làm mất đi năng lực tu luyện, mất sạch phước đức - bởi bấy lâu nay họ đã dùng phước đức chính mình mà vận hành bùa chú, tận hưởng niềm sung sướng, tự hào và hãnh diện về năng lực tu luyện, về khả năng làm được việc nơi mình.
Người Luyện Bùa dùng tâm ý sinh tạo bùa, dùng năng lực tu luyện của chính mình để CHIÊU DỤ, ĐIỀU KHIỂN VÀ NUÔI DƯỠNG âm binh để họ làm theo ý mình, mà thỏa mãn ý muốn nơi Người Dùng Bùa. Theo thời gian, bùa không ngừng sinh tạo, âm binh thu về càng nhiều, Người Luyện Bùa càng ngày càng tiêu hao nhiều năng lượng để nuôi dưỡng chúng sinh do mình sinh tạo. Dần dần, Người Luyện Bùa hao mòn sức lực, hao tổn nguyên khí, phước đức suy giảm. Còn những chúng sinh khi xưa bị can thiệp nhân quả, bị dùng sức mạnh uy hiếp - khiến chúng chẳng đòi nợ được người – vốn dĩ vẫn luôn ấp ủ sự sân giận. Chờ đến khi ta mất hết lực, chúng sẽ QUAY LẠI MÀ ĐÒI NỢ TA, khiến ta mang bệnh tật, thân xác đau đớn triền miên, công việc làm ăn thất bại, tiền bạc túng quẫn… mà sinh ra quẫn trí chỉ muốn kết liễu kiếp sống làm người.
Xét cho cùng, các thầy pháp luyện bùa cũng đều xuất phát từ CÁI TÂM CHÂN THẬT TU HÀNH để làm lợi ích cho nhân sinh. Nhưng thực tế là ta luôn bị tâm thức đối thể, si mê nhân ngã dẫn dắt tu hành - từ đó tạo ra muôn pháp mà hình thành các cảnh – mục đích cũng chỉ để ta trải nghiệm và học tập. Sau đó, cũng chính tâm ý thức đối thể ấy tạo nên nhân quả thiện - ác, chính - tà... đối đầu để TRIỆT TIÊU VỀ KHÔNG các thành quả do tâm ý thức đối thể ấy tạo ra. Khi đó ta sẽ nhận ra ý nghĩa bài học về muôn pháp CÓ SANH ẮT CÓ DIỆT, mà chứng thực bổn tâm luôn vì nhân sinh mà tạo nên muôn pháp, để thật biết bản chất sinh diệt nơi muôn pháp là thường hằng bất diệt.
* NGƯỜI DÙNG BÙA vì tâm tham muốn si mê mà tìm đến bùa chú: làm ít mà muốn hưởng nhiều, muốn hưởng quả khi chưa gieo nhân; tâm ghen ghét, đố kỵ chẳng muốn người hơn mình… mà tìm đến bùa chú để hại người. Chính tâm tham muốn ấy đã biến ta trở thành CON NỢ của thế lực bùa chú. Bản chất những gì thế lực bùa chú giúp làm thỏa mãn ý ta, từ tiền bạc, danh vọng, tài sản cho đến tình cảm... đều là những thứ ta VAY MƯỢN nơi thế lực Người Luyện Bùa, và tất yếu, ta sẽ TRẢ LẠI cho họ bằng cuộc sống chính ta trong tương lai. Vay gì trả đó rất sòng phẳng, nợ tiền trả tiền, nợ tình trả tình, nợ danh vọng trả danh vọng, nợ tài sản trả tài sản... Sức khỏe ta cũng theo những món nợ vay trả ấy mà suy kiệt, bệnh tật hành hạ, tâm trí bị những món nợ ấy làm cho rối bời, đưa cuộc sống ta vào bế tắc.
Lá bùa bị yểm nơi chồng tôi là của một người phụ nữ đáng tuổi mẹ tôi, cô ấy cũng vì TÂM THAM MUỐN có nhiều tiền (để kinh doanh cho vay tiền góp) nhưng lại không có khả năng tự kiếm, liền nhờ thầy pháp yểm bùa. Với mục đích là làm chồng tôi thần trí mê mờ, không thể phân biệt được những món hàng cô tới cầm thế là vàng giả (nhà tôi làm tiệm cầm đồ) – Lưu ý là chồng tôi có 20 năm kinh nghiệm về vàng. Cô lừa chồng tôi như thế trong suốt 3-4 tháng liên tiếp mà không bị phát hiện, số tiền trị giá bằng một căn nhà phố.
Cô cũng bị TRÓI BUỘC VÀO DANH VỌNG, vì xưa nay luôn sống trong cảnh giàu sang được người đời nể trọng, để bảo vệ danh vọng khi sa cơ, thất thế, cô đã đi vay mượn bằng sự lừa đảo mà tạo ra chiếc mặt nạ sang trọng nhằm đánh lừa kẻ chủ nợ mà cô đang tương tác, làm ăn.
Đến khi lá bùa được giải, bởi chúng tôi hiểu rất rõ sự vay trả sòng phẳng giữa tôi và người nơi nhân đã gieo ở kiếp trước, nên không kiện tụng - đây cũng là cách vợ chồng tôi DỪNG SINH TẠO tâm ý thức đối thể về người, mà GIẢI QUYẾT GỐC RỄ mọi nhân quả, để chúng giải thoát, thăng hoa nơi tâm trí vợ chồng tôi. Và chính khi vợ chồng tôi DỪNG SINH NIỆM ĐỐI THỂ VỀ NGƯỜI, lập tức những tâm ý thức đối thể mà cô đang phóng về phía vợ chồng tôi - đều không còn lực lượng đối đầu -liền PHẢN HỒI QUAY NGƯỢC VỀ LẠI mà hiển bày nhân quả nhất như nơi cuộc sống chính cô ấy. Cốt cũng để cô học bài học: nhân gieo sao ắt quả trổ y vậy, mà thực biết rằng: chính TÂM THAM MUỐN VỌNG CẦU MÀ GIEO NHÂN LỪA GẠT NGƯỜI, đã hại chính ta MẤT SẠCH những gì ta tạo dựng, và muốn bảo vệ.
Cô đã phải TRẢ GIÁ cho hành động DÙNG BÙA CHÚ ĐỂ GIEO NHÂN LỪA GẠT NGƯỜI. Chỉ trong 6 tháng, cô bị chính những người bạn làm ăn lâu năm lừa gạt MẤT SẠCH toàn bộ số tiền tích góp được, lừa mất luôn cả căn nhà gia đình cô đang ở. Cú sốc quá lớn, cô nhập viện liên tiếp vì lên tăng xông, tiếp tục bị tai nạn gãy chân, bị người ta đánh lổ đầu chảy máu, hết bệnh bao tử lại viêm đại tràng, viêm phổi, bị giang hồ truy đuổi sống cảnh trốn chui, trốn lủi không dám gặp ai…
Cô mất sạch sẽ tiền bạc, bị người ta bêu ríu, chửi bới trên mạng. Nhưng cô vẫn chưa tỉnh ngộ, lại tiếp tục si mê không nhận ra gốc rễ vấn đề nơi tâm thức mình, lại tiếp tục BÁM CHẤP VÀO TIỀN BẠC, THANH DANH bị mất ấy, mà cho rằng mình chẳng thể sống nổi, định uống thuốc chuột và nhảy cầu TỰ SÁT, tự hủy hoại cuộc đời mình, và TƯỞNG TRI rằng chết là chấm dứt hết mọi bế tắc.
Vì thấu hiểu cô đang học bài học về tâm tham lam danh lợi và sức mạnh của bùa chú nơi tâm ý thức đối thể, nên tôi sớm biết trong tương lai cô sẽ phải đối mặt với những điều gì. Suốt thời gian ấy, tôi luôn đi bên cạnh để theo dõi và nhắc nhở cô nhìn thấu sự thật: Chính tâm si mê đã dẫn dắt, hủy hoại và đẩy cuộc đời cô xuống vực thẳm. Tôi thường động viên cô rằng: tất cả đều là QUẢ TỪ NHÂN TA ĐÃ GIEO và những gì ta đang trải qua đều là GIẢ CẢNH, cốt cũng chỉ để ta nhận diện cái TÂM CHÂN THẬT chính mình mà thôi. Hãy DŨNG CẢM đối mặt với quả mà GIẢI QUYẾT cái nhân ấy để nó giải thoát về không mà thăng hoa. Người ta có chửi, có đánh, có giết cô cũng đều là cách để cô trả nợ cho người theo đúng những gì mà cô đã nợ họ. Hãy dũng cảm chấp nhận và thường xuyên chân thành sám hối, niệm Phật mà SOI TỎ GỐC RỄ SI MÊ chính tâm thức mình.
Còn cô tự tử thì sẽ phạm một trong những trọng tội, đó là tội bất hiếu với mẹ cha, với trời đất. Sẽ chẳng giải quyết được nhân quả, mà còn tạo nghiệp mê mờ chồng chất, để rồi khi chết đi, tâm thức cô sẽ bị giam giữ ngàn năm nơi niệm si mê bế tắc đau khổ ấy, không thể giải thoát. Nhân quả thiện ác đáo đầu để cô mất sạch sẽ tất cả những gì do tâm tham muốn si mê sinh tạo, cốt cũng chỉ để cô biết quay về chính mình mà chân thật niệm Phật, bồi dưỡng bổn tâm mình mà thôi.
* NGƯỜI BỊ YỂM BÙA cũng là đối thể đã từng TẠO NHÂN HẠI NGƯỜI mà nợ Người Dùng Bùa trong quá khứ. Nay nhân quả đáo đầu, đời này Người Bị Yểm Bùa là chồng tôi - bị Người Dùng Bùa là cô hại lại - cũng chỉ để cô lấy lại những gì mà chồng tôi đã nợ trong quá khứ.
Nhưng ta vốn dĩ đã quên hết những nhân đã gieo ở kiếp trước – nên kiếp này lại nghĩ rằng mình là người bị hại - mà sinh tâm đối kháng muốn đòi lại quyền lợi. Đó là ta lại tiếp tục gieo thêm nợ, rồi cứ vậy mà tạo nên vòng xoáy vay trả, trả vay lẫn nhau hình thành cái VÒNG LUÂN HỒI chẳng có đầu mối. Chỉ khi ta thấu tỏ mọi GỐC RỄ việc vay trả ấy mà DỪNG ĐÒI NỢ NGƯỜI, mới DỪNG VIỆC GIEO NHÂN NỢ LẠI, mà GIẢI THOÁT NHÂN QUẢ, kết thúc bài học nhân quả giữa ta và người mà thăng hoa tiến hóa.
Bùa chú, bùa ngải chẳng qua là DUYÊN để nhân sinh trả quả. Khi Người Bị Yểm Bùa trả hết quả, tâm lắng đọng tư duy phản tỉnh, giải thoát si mê mà thấu tỏ hết mọi chuyện, BÙA SẼ MẤT TÁC DỤNG. Khi đó ta sẽ sáng suốt nhận ra bài học từ những sai lầm đã qua, rút kinh nghiệm mà trưởng thành, hoàn thiện bản thân.
Chồng tôi là người kinh nghiệm sành sỏi về vàng. Sau khi sự việc xảy ra, anh hay tự trách mình tại sao lại mê muội như thế, tại sao rõ rành rành như vậy mà anh không nhận ra đó là vàng giả. Nhận ra sao được khi đó là NHÂN QUẢ tạo từ cái tâm si mê, đã ngăn che bít lối trí tuệ chính ta, như mây đen che khuất mặt trời. Vì duyên cô ấy dùng bùa yểm anh, để anh trả nợ cho cô ấy, nên anh sẽ bị bóng tối si mê dẫn dắt cho đến khi trả nợ xong. Khi ấy, bóng đen mây mù che mặt trời tan biến mà hiện rõ ánh quang minh làm tan hoại các pháp si mê, giúp chúng quy về Bổn Nguyên mà sinh tạo pháp mới để luôn thăng hoa, tiến hóa. Đó là quy luật THÀNH TRỤ HOẠI KHÔNG luôn vận hành nơi vũ trụ càn khôn này.
Khi biết toàn bộ số hàng là giả, chồng tôi đã định kiện cho cô ấy đi tù. Tôi đã nói với chồng mình rằng: “Xét về lý đời, thì anh kiện bà ấy là đúng vì rõ ràng là bà ấy đã sai với anh, nhưng trước khi kiện, hãy để em xem NHÂN QUẢ giữa anh và bà ấy.”
Và Bổn Nguyên đã cho tái hiện lại cảnh trong quá khứ. Ở nơi ấy, có một quán ăn bằng gỗ, người ra kẻ vào tấp nập. Rồi một ngọn lửa lớn bùng lên, căn nhà ấy BỊ THIÊU TRỤI. Đó chính là nhân duyên giữa chồng tôi và cô ấy trong quá khứ - chồng tôi đã từng đốt nhà, đốt đi kế sinh nhai của bà. Vì vậy đến giờ đủ duyên, chồng tôi phải trả cho bà một khoản tiền tương ứng một căn nhà có mặt tiền để kinh doanh, và số tiền đó là để bà kinh doanh kiếm sống - đó là sự CÔNG BẰNG VAY TRẢ nơi mỗi nhân sinh.
Tôi nói những gì tôi thấy, và nói anh hãy suy nghĩ thật kỹ, tôi chỉ tư vấn và anh là người quyết định, cho dù anh lựa chọn thế nào tôi cũng sẽ đi theo anh. Và vài ngày sau anh nói với tôi rằng: “Số tiền ấy coi như anh gửi vào ngân hàng vũ trụ và nguyện cho bà ấy sớm nhận ra bài học chứ không tiếp tục lầm lỗi nữa”. Chúng tôi quyết định TỪ BỎ và không kiện cô ấy. Chúng tôi tin sâu vào nhân quả, chấp nhận nhân quả mà chấm dứt bài học vay trả, để chúng tôi không còn luân hồi mà học nó nữa. Thật kinh ngạc, một tháng sau chúng tôi bắt đầu hay tin cô ấy gặp tai ương liên tiếp, tan nát cả gia đình.
Nhưng bản chất con người luôn bị đối thể dẫn dắt để chẳng thể tỏ thấu tâm ý thức đối thể chính mình, nên nghĩ là một chuyện, còn VIỆC THỰC HÀNH LẠI KHÓ VÔ CÙNG, chính cái khó đó mới thực là giải quyết tận cùng nhân quả giữa cô ấy và vợ chồng tôi. Sau này, khi cô ấy mất sạch tài sản, chỉ còn duy nhất căn nhà - vừa bị ngân hàng, vừa bị xã hội đen siết - cô bán nhà ấy đi và chỉ còn lại một ít tiền. Sự sân giận nơi chồng tôi lại NỔI LÊN, vì thấy người ta đòi được nợ, còn anh thì không, nên anh muốn lấy nốt số tiền còn lại của cô ấy.
Tôi cũng nói anh rằng: “Ngày xưa ANH ĐỐT NHÀ CÔ ẤY, nhân anh gieo bắt đầu từ CĂN NHÀ, và bây giờ kết thúc cũng là CĂN NHÀ. Nếu anh lấy nốt số tiền còn lại của cô ấy, thì cái vòng luẩn quẩn này đến bao giờ mới dứt? Tất cả là đang thử thách bổn tâm anh, anh có biết không? Giờ người ta bán đi cả căn nhà là thứ tài sản cuối cùng, chỉ còn lại số tiền ít ỏi để trang trải cuộc sống, liệu anh có nỡ lấy hết để đẩy gia đình họ vào ngõ cụt?” Tôi nói vậy, anh sững lại một hồi lâu, rồi trả lời: “Giữa việc đúng và việc tử tế, anh chọn làm việc tử tế.” Và từ đó, chúng tôi chính thức xóa bỏ những mất mát đã qua để hướng về phía trước.
Do vậy, chỉ có TÂM CHÂN THẬT THẤU SUỐT TƯỜNG TẬN mọi việc ta làm, ta luôn sống vì người mới đủ lực giúp ta GIẢI THOÁT mọi bám víu si mê. Đó là giúp chính ta giải thoát mọi thấy biết sai lầm mà vun bồi đạo đức, chẳng gieo nhân vay đuổi, truy cùng giết tận người - để ta luôn âm thầm, lặng lẽ ủng hộ người mà mở cho người một con đường sống.
Sau chuyện này, chồng tôi cũng nhận diện ra nguyên nhân cốt lõi là từ TÂM THAM nơi chính mình, chính vì tham tiền lời mà đã chiêu dụ ma quỷ nơi bùa chú, tạo điều kiện cho tâm tham nơi bà ấy tiếp cận. Và anh phải trả cái giá quá đắt cho bài học này. Chúng tôi cũng rút ra được vô số bài học về sự kỷ luật, về quản trị rủi ro, rà soát chặt chẽ quy trình kiểm tra hàng hóa… nhờ đó mà sau này chúng tôi cũng thoát khỏi nhiều vụ lừa đảo và vững vàng hơn trong tương lai. Bản thân tôi cũng tự nhận ra lỗi sai của mình là bấy lâu nay thờ ơ với công việc của anh. Để rồi mỗi người mỗi việc chẳng ai quan tâm tới ai, tạo sơ hở để người gây nghiệp si mê cho chính họ. Vì vậy, tôi quyết định luôn đồng hành cùng chồng trên mọi chặng đường về sau, chúng tôi trở nên gắn kết với nhau hơn xưa.
* NGƯỜI GIẢI BÙA: Các thầy pháp thường dùng thần thông, sức mạnh tu luyện chính mình để giải bùa bằng cách ĐÁNH ĐUỔI âm binh đi, LẤY MẠNH HIẾP YẾU mà chiến đấu tương tàn với chủ nhân của âm binh đó, làm cho người phải chịu thua thiệt mà rút binh. Thế nhưng, họ không ngờ rằng: từ chủ nhân cho đến những âm binh ấy, vẫn luôn ôm sự sân hận mà chầu chực bên ngoài, chờ đến khi họ phước đức cạn, năng lực giảm sút, thì chúng sẽ quay lại để báo thù, sinh tạo bệnh tật, tai ương liên tiếp.
Tất cả cũng chỉ để cho các thầy nhận ra bài học rằng: Không có gì có thể hóa giải được tâm thức sân hận, si mê ngoài TÌNH YÊU THƯƠNG nơi thấy biết tỏ thấu bản chất Bổn Nguyên, mà vượt thoát tâm ý thức đối kháng, dừng sinh tạo ý thức đối thể. Hệt như những gì tôi đã làm với bùa chú yếm trên người chồng tôi, những chúng sinh nơi bùa bị năng lượng Bổn Nguyên nơi tôi thu phục mà soi tỏ si mê để giải thoát, rồi chủ nhân bùa chú đến đánh tôi cũng bị tình yêu thương nơi thấy biết bản chất Bổn Nguyên thu hồi thần thông mà kết thúc bài học.
🌷🌷🌷 Mọi việc đến với ta đều theo nhân duyên, nhân quả vận hành để ta đối diện nó mà giải quyết. Tâm ta tham muốn như ma quỷ, thì sẽ chiêu dụ ma quỷ nơi bùa chú – đó là con đường mà người lựa chọn để học. Nhưng bản chất cũng chỉ là để cho những người trong cuộc trải nghiệm, rút ra bài học cho chính mình, triệt tiêu toàn bộ nhân đã gieo mà kết thúc bài học.
Đứng trước vấn đề, tùy theo sự thấu tỏ nhân quả, hay sự si mê nơi bản ngã con người mà mỗi người có hành động khác nhau. Khi ta cứ ngụp lặn trong vũng bùn si mê, thì cả cuộc đời này và nhiều kiếp sau sẽ cứ lãng phí thời gian mà xoay vần vay trả nơi nhân quả ấy, chỉ để học đi học lại một bài học chưa tốt nghiệp. Khi ta thường TƯ DUY PHẢN TỈNH, dùng tuệ giác soi thấu mọi gốc rễ sinh tạo các pháp giữa ta và người, dừng sinh tạo ý niệm đối thể về người, thì tất yếu sẽ tốt nghiệp mà nhận ra giá trị bài học đó mang lại cho chính mình nơi cuộc sống - hệt như cách vợ chồng tôi đã làm.
Tất cả mọi bế tắc trên đời đều từ SI MÊ BỊ THẤY BIẾT ĐỐI THỂ, để rồi ta bị tâm tham muốn trói buộc và dẫn dắt. Chỉ có TÌNH YÊU THƯƠNG TỎ THẤU CHÍNH MÌNH mới giải thoát tận cùng mọi gốc rễ, giúp ta thăng hoa, hòa cùng tiến hóa nơi vũ trụ càn khôn mà thôi.

28. NHỮNG GÌ TA BÁM CHẤP, ĐỀU TRÓI BUỘC TÂM THỨC CHÍNH TA
(PHẦN 4: BÙA THIÊN LINH CÁI VÀ BÙA CHIÊU TÀI)
Câu chuyện bắt đầu từ 4 năm về trước, thời gian ấy hai vợ chồng tôi có một miếng đất bán hoài không được. Cũng vì nôn nóng muốn bán được đất, khi được giới thiệu một vị thầy bói mát tay, chúng tôi đã đến xem. Nhưng trong đầu cũng chỉ có ý định hỏi ông vì sao miếng đất lại khó bán như vậy. Mặc dù nó rất đẹp, đường lớn, giá phải chăng nhưng ai hỏi rồi cũng đi luôn.
Ông ấy nói rằng, mảnh đất này có vong nên ai tới là bị đuổi đi, và thầy viết cho vợ chồng tôi bài cúng cái vong đó, trong bài cúng có ghi cụm từ “THIÊN LINH CÁI” – thời điểm ấy chúng tôi hoàn toàn không biết gì về bùa, cứ nghĩ đó là tên một vị nào đó sẽ giúp mình, nên cũng vô tư làm theo lời thầy.
Sau khi chúng tôi cúng đất xong, một thời gian sau, tiếp tục có một người quen từ nơi xa tới - cô ấy xưa giờ toàn xem bói cho chính trị gia và các nhà kinh doanh giàu có - và cũng ngỏ ý giúp vợ chồng tôi bán lô đất này bằng BÙA CHIÊU TÀI. Cái tên hoa mỹ và nghe có vẻ vô hại, nên chúng tôi cũng đồng ý luôn, mà chẳng mảy may quan tâm đến việc tìm hiểu xem tác hại bùa chú ra sao.
Vậy là chỉ một mảnh đất mà nhân duyên đưa đẩy khiến vợ chồng tôi vô tình được sự bảo hộ của HAI LOẠI BÙA. Chúng tôi sau đó đã bán được miếng đất chỉ trong thời gian rất ngắn và gặp chuỗi may mắn liên tiếp. Nhưng càng về sau, xui xẻo, mất mát liên tục xảy ra trong gia đình, và cho đến khi tỏ đạo, thì tôi mới rõ thấu được hai mặt LỢI ÍCH song hành cùng TÁC HẠI nơi bùa chú. Tôi cũng nhận ra rằng bao nhiêu năm qua, tâm thức chúng sinh nơi hai loại bùa này vẫn ngày đêm bám víu vào linh thức chồng tôi để bòn rút năng lượng, và vẫn âm thầm tác động tới cuộc sống chúng tôi theo chiều đối thể nơi tâm thức chính nó.
Cũng chính là xuất phát từ TÌNH YÊU THƯƠNG tôi dành cho chồng mình, mà Bổn Nguyên đã dần chỉ dẫn, giúp tôi THÁO GỠ từng loại bùa một mà giải thoát cho chúng sinh bị kẹt nơi bùa - từ đó giúp tôi THẤU TỎ CHÂN THẬT về pháp bùa chú nơi BÙA THIÊN LINH CÁI và BÙA CHIÊU TÀI, để tôi thực sự khẳng định rằng:
Chính tâm ta tham lam như ma quỷ đã chiêu dụ ma quỷ nơi bùa chú mà quay lại hại chính ta. Nhân quả THÀNH TỰU tâm tham muốn chính ta, và cũng chính nhân quả TRIỆT TIÊU thành tựu ấy mà thăng hoa tiến hóa, để ta thực chứng bản chất muôn pháp CÓ SINH ẮT CÓ DIỆT mà luôn an bình tự tại trước sự sinh diệt thường hằng nơi muôn pháp thế gian.
🌼🌼BÙA THIÊN LINH CÁI
Đêm hôm ấy trời cũng đã khuya, hai vợ chồng nằm nói chuyện với nhau thì chồng tôi bị mệt và khó thở. Tôi nói anh nhắm mắt lại định tâm niệm Phật và hít thở sâu, rồi anh liền chìm vào giấc ngủ. Tôi ngồi thiền hướng về phía anh, và bắt đầu thấy chúng sinh “đen thui đen thít” cuồn cuộn bốc lên từ ngực anh và chạy về phía tôi.
Trước mắt tôi bắt đầu hiện lên hình tướng cái gì đó thuôn dài giống như thân một con mực, nhưng không có đầu - mà phần lẽ ra là cái đầu thì lại có tua tủa những sợi giống như rễ cây. Khi nhìn đến đây, bất ngờ trong đầu tôi tái hiện lại toàn bộ khung cảnh một vị thầy pháp cho chúng tôi tờ giấy có ghi chữ “THIÊN LINH CÁI”. Tôi hiểu ra những gì đang hiển bày lúc này chính là bản chất nơi lá bùa THIÊN LINH CÁI ấy, và bao lâu nay họ vẫn vẫn luôn quây quần nơi tâm thức chồng tôi.
Tôi đi xuyên vào tấm thân con mực, xuất hiện trước mắt tôi là một căn đường hầm đá chẻ vuông vức rất rõ nét. Tôi cứ bay mãi trong căn đường hầm đen thui dài ngoằng ấy, và dừng lại ở nơi mà trên vách đá có những ô lõm cao bằng một con người. Tiếp tục từ trong các ô chạy ra vài bóng đen, rồi họ nhập lại làm một và chui vào ngực tôi. Mặt đất trong đường hầm bắt đầu rung chuyển và dần nứt ra, bẻ toạc làm đôi y như bẻ một ổ bánh mì, chúng tôi thoát ra từ chỗ nứt ấy và mắt tôi bị đẩy mở ra, tôi xả thiền và đi ngủ.
Bởi tôi có tâm nguyên ghi chép lại hành trình những tâm thức chúng sinh bị mắc kẹt, và truy tìm nguyên nhân bị mắc kẹt để giúp chúng sinh giải thoát, mà thật sự thấu tỏ bản chất chúng sinh nơi tâm thức tôi. Nên khi thiền Bổn Nguyên thông qua tôi hiển bày bản chất muôn pháp, còn trong giấc mơ khi tôi ngủ, Bổn Nguyên thông qua tâm thức chúng sinh mà hiện nên sắc tướng chúng sinh ấy, hiển bày cảnh tâm thức chúng sinh bị mắc kẹt. Bị khuất tất điều gì, họ đều chân thật kể cho tôi nghe bằng hình ảnh tái hiện trong giấc mơ, để tôi biết nguyên nhân gốc rễ sự mắc kẹt ấy mà giải tỏa mọi khúc mắc nơi tâm thức họ.
Đêm hôm ấy, tôi mơ một loạt giấc mơ tiếp nối nhau. Tôi liên tục thấy cảnh một người nam nằm trên mà quan hệ với người nữ trong căn phòng chật hẹp. Rồi cảnh trong mơ tái hiện hình ảnh một cô gái đang lang thang đi tìm một quyển bí kíp nào đó, và cô ấy đã tìm thấy nó nơi một người đàn ông. Tôi thấy cảnh cô theo người, và họ cùng nhau uống rượu, uống sữa trắng vui vẻ. Và rồi hồn cô bị bắt đưa về một cái chòi gỗ ở một nơi hẻo lánh, xa xôi. Cô bị giam trong đó mà cứ trong ngóng ra ngoài cửa, thỉnh thoảng lại ôm mặt khóc. Cô nói rằng cô không nhớ đã ở đây bao lâu rồi, và không hiểu vì sao cô cứ thấy mình có tình yêu với một ai đó mà cô gọi là chồng – nhưng lại mơ hồ không biết đó là ai - và lúc nào cũng có cảm giác cô và người ấy đang quan hệ tình dục với nhau. Cô chỉ cho tôi thấy căn chòi cô ở sực nức mùi tinh trùng rất khó chịu. Cô nắm chặt lấy tay tôi và cầu xin tôi hãy đưa cô ra khỏi nơi này, cô muốn về với chồng của mình, vì cô yêu ông ấy…
Tỉnh giấc, tôi đem câu chuyện ấy kể cho Cô tôi nghe. Trong suốt thời gian nhắn tin với Cô, tôi liên tục rùng mình và muốn khóc – tôi biết rằng tâm thức cô ấy vẫn đang nằm trong người tôi từ tối qua tới giờ. Sau một hồi được Cô phân tích, tôi mới hiểu ra sự thật đau buồn mà tâm thức bị bắt làm THIÊN LINH CÁI phải trải qua, cũng chỉ vì bị si mê dẫn dắt, yêu đương mù quáng mà tự hại bản thân mình.
Tôi hiểu rằng Người Luyện Bùa đã cài vào não cô gái một ý niệm là đi tìm bí kíp làm chủ quyền lực, muốn gì được đó. Và chính TÂM THAM MUỐN si mê quyền lực ấy đã khiến cô bị Người Luyện Bùa dẫn dắt, lừa gạt kết duyên thành vợ chồng. Vì những lời yêu thương dụ dỗ ngon ngọt mà đem thân xác giao cấu, rồi bị chặt đầu và đem đầu làm vật kết nối linh hồn để luyện bùa. Linh hồn cô bị người luyện Thiên Linh Cái khống chế, làm cho mê mờ, chỉ biết nghe lời sai khiến để làm vừa lòng người mà cô cho là chồng, rồi được chồng thỏa mãn dục lạc, nên cô không thể phân biệt được đó là người đã hại mình.
Bị hại chết rồi mà cô vẫn còn yêu say đắm người đã giết mình – để rồi coi ông ấy là chồng vì ngày đêm vẫn luôn được ông vuốt ve âu yếm, quan hệ thân mật. Cô cứ ôm mãi cái tình yêu mù quáng ấy mà ở trong bóng tối si mê, để cho người lợi dụng mà điều khiển, sai khiến mình. Cũng chính vì vậy mà khi thiền, Bổn Nguyên đã thị hiện hình ảnh một con mực thuôn dài cụt đầu, bản chất thân xác các cô giống như con mực ấy, thân một đường, đầu một nẻo; còn linh thức thì tạo thành một căn hầm đá chẻ - căn hầm đó chính là sự si mê trong tình yêu do cô tạo ra, mà tự hại mình bị giam trong bóng tối u minh, để rồi người sai gì thì làm nấy. Cô tự biến mình thành một căn hầm trống rỗng để tiếp tục là nơi nuôi nhốt tất cả những tâm thức khác mà Người Luyện Bùa thu phục được, sau đó điều khiển họ làm tay chân bộ hạ, mà phát triển thần uy, quyền lực.
Đến khi tôi tới, thì cô ấy mới nương theo lời niệm Phật mà chui vào người tôi để thoát khỏi căn hầm u mê do chính mình sinh tạo. Khi tôi nói toàn bộ sự thật cho cô ấy nghe, người tôi rùng mình liên tục và hai hàng nước mắt chảy dài… Tôi biết rằng các cô ấy đang khóc…
Thấy thương sao mà thương, nên tôi đã tranh thủ thiền niệm Phật hướng về tâm thức cô. Cô không thể giải thoát được vì cái chân gốc rễ linh thức cô bị kẹt lại ở phía thầy bùa. Tôi tiếp tục niệm Phật, dụng thanh tịnh lực Bổn Nguyên soi sáng sự u tối mê mờ… nền đất như thân con mực ấy bắt đầu phập phồng như đang thở. Dần dần mặt đất nứt ra, khí bên trong bốc lên hòa cùng linh thức cô ấy thành một khối khí trắng, nhưng cũng không thể đi được mà tiếp tục tụ lại nằm trong người tôi.
Lúc sau, vị thầy bùa thấy có động nên liền tìm đến, ông cũng như những vị thầy khác, dùng ánh sáng tu hành chính mình để tấn công tôi. Cũng là duyên để Bổn Nguyên thu hồi những gì ông tạo ra mà sớm kết thúc bài học về bùa chú. Dần dần tôi thấy ông biến mất.
Cô gái sau đó mới CẮT ĐỨT ĐƯỢC SỰ TRÓI BUỘC với vị thầy bùa mà hóa thành ánh sáng bay về Quang Minh Như Lai Phật Tổ. Cô ấy đi rồi, tôi thấy mặt đất xuất hiện một cái hố sâu hoắm, trong đó có chứa một loại nước màu nâu đen sền sệt, tôi hiểu rằng đó là máu chúng sinh từng được thầy dùng để luyện bùa. Theo từng câu niệm Phật nơi tôi, máu từ cái hố ấy dần sôi lên sùng sục, sùi ra ngoài, chảy hết vào người tôi rồi hóa thành khí trắng giải thoát.
Câu chuyện cảm động này, tôi nhận ra bài học vô cùng sâu sắc về bản chất si mê nơi linh thức Thiên Linh Cái và Người Luyện Bùa.
* LINH THỨC THIÊN LINH CÁI
Mục đích Người Luyện Bùa hướng đến là thông thiên độn thổ để tránh sự vây đuổi của pháp luật, thâu tóm quyền lực, sai khiến chúng sinh phục vụ cho tâm tham muốn chính mình. Các cô gái nhẹ dạ, tin vào lời đường mật mà đặt trọn tình yêu, niềm tin mù quáng vào Người Luyện Bùa, mà không nhận ra rằng đang bán mình cho quỷ dữ, để rồi bị hại mất thân. Các cô SI MÊ TỰ TRÓI BUỘC MÌNH vào người ấy, mà vẫn nghĩ là chồng mình, để rồi làm nô lệ, bị điều khiển như con rối trong tay người.
Nhưng suy cho cùng thì đó cũng là tâm ý thức đối thể ân oán vay trả theo nhân duyên gặp nhau để thành toàn ý muốn lẫn nhau, do thiếu phước nên các cô gái phải làm theo lệnh chủ nhân giúp ích cho đời, cũng là để tạo công đức cho chính mình. Đến khi khổ đã đủ, duyên nơi thân cô hồn ngạ quỷ đã tận, linh thức Thiên Linh Cái sẽ gặp người đã vượt thoát tâm đối kháng, dụng tánh thể thanh tịnh Bổn Nguyên nơi ý niệm Phật mà soi sáng giải thoát mọi thấy biết si mê.
* NGƯỜI LUYỆN BÙA
Ông bị TÂM THAM LAM thần thông, bị tâm mưu cầu DANH LỢI, QUYỀN LỰC lừa gạt chính mình mà tự đẩy mình đi vào ma đạo. Chỉ vì bị tâm tham lam ấy TRÓI BUỘC mà ông gieo nhân LỪA TÌNH, GẠT NGƯỜI, TẠO NGHIỆP HẠI NGƯỜI – cũng là HẠI CHÍNH MÌNH.
Ông chiêu dụ người cũng chính là ông TỰ TRÓI BUỘC mình với linh hồn luyện Thiên Linh Cái, bằng việc ngày ngày âu yếm, ân ái, dục lạc như vợ chồng với hình nhân, dùng tinh lực chính mình điều khiển linh hồn si mê tình của Thiên Linh Cái.
Nhờ thần lực của Thiên Linh Cái mà ông làm được nhiều việc người nhờ cậy ông, chiêu dụ được nhiều âm binh về phục vụ cho ý muốn chính mình, rồi si mê nhân ngã cứ thế mà tăng trưởng. Đến khi dùng hết phước đức, thì có người đã vượt thoát tâm thức đối kháng tới thu hồi những gì tâm ý thức đối thể ông sinh tạo. Cũng là đủ duyên để nhân quả đáo đầu, thần lực ông mất đi, ông trả quả mà ông đã gieo, cốt cũng để triệt tiêu cái nhân LỪA TÌNH, HẠI NGƯỜI, tiêu diệt quyền lực tạo nên sự ngả mạn, quay về bổn tâm chân thật mà thấu tỏ muôn pháp do ta tạo ra đều theo quy luật THÀNH TRỤ HOẠI KHÔNG mà sinh diệt.
🌸🌸 BÙA CHIÊU TÀI
Sau khi giải bùa Thiên Linh Cái xong, hôm sau tiếp tục Bổn Nguyên lại tác ý để tôi đi tháo gỡ thần lực BÙA CHIÊU TÀI nơi chồng mình, để rồi vị thầy bùa chủ nhân của nó đến gặp tôi.
Ông ấy có sức mạnh lớn kinh hoàng. Cho tới tận bây giờ, tôi vẫn chưa từng gặp ai có thần lực tấn công người khủng khiếp như ông. Ông đánh tôi bằng cách tạo ảo giác nhiễu loạn ánh sáng, tác động vào từ trường khiến ánh sáng linh thức tôi bị xáo trộn, gây nên sự chèn ép, co kéo, khiến đầu óc quay cuồng. Tiếp đến ông nâng tôi lên không trung và xoay tròn liên tục trong thời gian dài rồi lại quật tôi xuống đất, cốt chỉ để tôi hoa mắt, chóng mặt mà mất định lực. Nhưng tôi vẫn luôn định tâm vào hơi thở chính mình… Thấy tôi vẫn ngồi im chẳng nhúc nhích, ông tiếp tục tạo ảo giác nhấn chìm tôi vào nước khiến tôi ngộp thở, tạo những vòng xoáy nước liên tục bắn vào đầu tôi từ nhiều phía và xoay tròn tôi vòng vòng. Tôi vẫn chỉ ngồi im niệm Phật và chẳng phản kháng ông...
Sau cùng, ông tung tuyệt chiêu cuối, dùng hết sức tạo thành ánh sáng màu cam như lửa, chạy vòng vòng mỗi lúc một nhanh quanh đầu tôi, càng lúc càng siết chặt khiến các mạch máu, các khớp xương đầu tôi cảm giác bị co ép muốn vỡ ra, kêu “tách tách, rắc rắc” liên hồi. Toàn thân tôi nóng bừng như bị lửa thiêu đốt. Khi ấy tôi vừa bị ảo giác xoay, vừa chịu sức nén ngày càng lớn bóp nghẹt gây đau đớn, khó thở, vừa bị âm thanh chính cơ thể mình tác động. Cùng lúc đó thì bên ngoài, chồng tôi lại vô tình mở nhạc và gây ra những tiếng ồn…
Quá nhiều thứ tác động, đột nhiên lúc ấy tôi nhận ra rằng ông thầy bùa với sức mạnh kinh khủng ấy chính là đối thể chính tôi, và cũng đều là Như Lai hóa hiện để THỬ THÁCH VÀ RÈN LUYỆN ĐỊNH LỰC cho chính tôi. Hiểu điều ấy, tôi vững chắc ngồi im chịu trận, chỉ niệm Phật hướng TÌNH YÊU THƯƠNG đến đối thể chính mình mà thôi. Tôi đã ngồi đó rất, rất lâu mà chịu đựng để ông tấn công mình. Và dần dần, mọi thứ yếu dần, rồi mất hẳn…Ánh sáng thần thông của vị thầy bùa dần hóa thành than đen và nát vụn. Tôi biết ông đã được Bổn Nguyên hướng dẫn quay về con đường tu hành chân chính, quay về bổn tâm chính mình…
Nhưng đó vẫn chưa phải kết thúc. Khi ông biến mất, tiếp đến tôi thấy xuất hiện một con RỒNG TRẮNG KHỔNG LỒ. Nó cực kỳ hung hăng, cái đầu nó tiến sát trước mặt tôi và há miệng gầm thét, nạt nộ! Thần lực vô cùng dữ dội, nó lại tiếp tục tấn công tôi bằng cách phà lớp lớp khí đen dày đặc, xộc khí từ ngực tôi lên cổ họng khiến tôi bị ho liên hồi, rồi nó dùng đuôi quật tôi, nhấn chìm tôi vào nước rồi quấn quanh người siết chặt lấy tôi.
Lúc ấy tôi cũng đã thấm mệt (vì đã thiền gần 3 tiếng rồi), bất ngờ tôi thấy trước mắt mình xuất hiện một xoáy nước, theo lời niệm Phật thì từ giữa xoáy nước rút ra một sợi dây thừng lớn và dài. Tôi cứ kéo căng mà rút mãi sợi dây thừng ấy cho đến hết và sợi dây thừng hóa thành ánh sáng chói lòa. Lúc ấy con rồng chợt SỮNG SỜ, nó ĐỨNG IM KHÔNG NHÚC NHÍCH nhìn về phía tôi.
Cuối cùng nó đã nhận ra tôi, người chủ nhân đã từng thu phục nó trong tiền kiếp. Chỉ đến khi tôi rút sợi dây thừng - là sợi dây nhân duyên xưa kia giữa tôi và nó, thì nó mới thực sự thức tỉnh mà ngừng tấn công. Nó đã mừng rỡ quấn quít lao vào lòng tôi, khiến tôi xúc động đến mức rùng mình liên tục và khóc. Kể từ đó chú rồng ấy mang tên Bạch Long và luôn đồng hành cùng pháp thân tôi trên mọi nẻo đường, để thu gom tâm thức chúng sinh si mê và giải thoát cho họ.
Hôm ấy, sau khi mọi việc đã xong, tôi đã mất thêm 1 ngày để thiền liên tục mà giải thoát cho tâm thức chúng sinh còn sót lại (trong khi những vị thầy khác tôi thường chỉ làm 15 phút là xong). Sau đó, tôi mới nhận ra rằng: ông ấy có thần lực và sức mạnh chiêu dụ âm binh kinh khủng như vậy bởi vì ÔNG ẤY CHÍNH LÀ BẠCH LONG. Vốn dĩ xưa kia pháp thân tôi cho nó xuống thế gian, nương năng lực tu hành nơi tôi mà đầu thai làm người, tạo pháp giúp đời để trải nghiệm mà lập công bồi đức. Bạch Long là linh long đã tu hành trên nghìn năm mới có năng lực kinh hoàng như thế. Đúng là phải đánh nhau mới nhận diện nhau. Nó đánh tôi cũng vừa là diễn vai đối thể mà Như Lai nương theo nó làm đạo diễn để thử thách định lực nơi tôi.
Suốt quãng thời gian qua, nó tung hoành ngang dọc, tạo ra biết bao nhiêu bùa chiêu tài, rồi nó đi thu gom những tâm thức lạc loài không nơi nương tựa đến địa điểm kinh doanh của Người Dùng Bùa mà dẫn khách, giúp họ làm ăn phát đạt. Để rồi cho rằng mình làm được việc giúp người mà đắc ý, dần tăng trưởng bản ngã si mê, đi vào tà đạo mà chẳng hay biết. Nay duyên đã tận, Bổn Nguyên thông qua tôi triệt tiêu thần lực tạo nên si mê nhân ngã chính nó, đưa linh thức nó quy về lại chủ nhân để tiếp tục con đường tu hành.
* Nhờ có vai diễn của Bạch Long, mà tôi mới THẤU TỎ CẶN KẼ BẢN CHẤT CỦA BÙA CHIÊU TÀI. Đó là Người Luyện Bùa dùng năng lực tu luyện chính mình để thu phục âm binh tạo thành thần lực. Sau đó tiếp tục dùng thần lực để THU GOM CHÚNG SINH LÀ TÂM THỨC ĐỐI THỂ của Người Dùng Bùa – những tâm thức đối thể ấy vốn dĩ đến để đòi nợ Người Dùng Bùa – khiến cho đối thể không đòi được nợ. Lại còn sai khiến âm binh đến giúp Người Dùng Bùa, dẫn dắt những người có nhu cầu đến tương tác làm ăn, do vậy mà người dùng bùa chiêu tài gặp MAY MẮN liên tiếp, mua may bán đắt.
🌷🌷Như vậy, về bản chất thì bùa Thiên Linh Cái và bùa Chiêu Tài Lộc có sự GIỐNG VÀ KHÁC NHAU:
* Cả hai đồng một bản chất là pháp sinh tạo để giúp người, liền hại Người Luyện Bùa và Người Dùng Bùa tăng trưởng si mê nhân ngã, hại đối thể chẳng đòi được nợ mà tạo nên oán kết giữa ta và người. Đến lúc đủ duyên pháp ấy diệt tận, sẽ có người vượt thoát tâm đối kháng đến thu hồi thần lực, mà giải thoát tất cả những tâm thức chúng sinh đã bị thu gom, điều khiển ấy - cũng chính là giải thoát tâm thức si mê nhân ngã mà quy về sống cùng thấy biết chân thật Bổn Nguyên.
* Bùa Thiên Linh Cái và bùa Chiêu Tài Lộc khác nhau ở chỗ mục đích ban đầu. Mục đích ban đầu nơi Người Luyện Bùa Thiên Linh Cái là hướng đến quyền lực thăng thiên độn thổ, để trốn tránh mọi thế lực đến uy hiếp vây bắt mình, rồi cho đó là quyền năng tối thượng. Bởi do ý nghĩ cho rằng tu luyện sẽ đạt được đại thần thông vượt mọi thế lực mà vượt thoát nhân quả, nên sinh tạo hành động giết người, lừa gạt người bằng tình yêu thương nam nữ, là tình yêu thiêng liêng mà trời đất gửi gắm nơi thân con người để duy trì tiếp nối sự sống - ấy là tạo nhân phỉ báng, xem thường tình yêu trời đất - cũng chính là xem thường sự sống chính mình. Đem máu huyết nơi người làm chất liệu luyện bùa, giống như là ăn thịt đồng loại mà đánh mất tính nhân con người.
Lại nữa, vì mục đích tu luyện để thông thiên độn thổ mà trốn tránh pháp luật, trốn tránh nhân quả, nên đã gieo tạo nhân đối kháng luật pháp, đối kháng nhân quả - để rồi quả theo nhân trổ mà làm kiếp người giam cầm nơi lao tù mà chịu khổ sai. Và chính cuộc đời trong chốn lao tù mới giúp Người Luyện Bùa Thiên Linh Cái nhận diện sự ảo tưởng thần lực thông thiên độn thổ, mà thực biết thần thông sẽ tan biến khi nhân quả định tội.
Đó cũng chính là sự thực chứng bản chất bất di bất dịch nơi các pháp sinh diệt mà chỉ có sự trải nghiệm các pháp do thấy biết ta tạo ra mới là bài học có giá trị thực tiễn.
Còn Người Luyện Bùa Chiêu Tài chỉ một mục đích đem tài lộc cho người, giúp người thuận lợi trong việc làm ăn, chấp nhận hy sinh phước đức nơi mình cho người trong việc can thiệp vào nhân quả nơi người. Họ không gieo nhân đánh mất chánh nhân làm người, không gieo nhân xem thường luật pháp, xem thường nhân quả để khiến thân này phải vướng vào vòng lao lý trong tù. Do vậy, mà Người Luyện Bùa Chiêu Tài Lộc chỉ tích lũy phước đức cho mình mà giữ nhân làm người để luôn thăng hoa tiến hóa. Còn Người Luyện Bùa Thiên Linh Cái thì luôn phá nát phước đức tu hành chính mình, phá nát chánh nhân làm người để rồi quay lại luân hồi làm kiếp cô hồn, ngạ quỷ, súc sinh mà học lại bài học tiến hóa.
* Tôi cũng thấu tỏ được rằng: NGƯỜI DÙNG BÙA cũng vì TÂM THAM LAM DANH LỢI mà chiêu dụ ma quỷ nơi bùa chú. Trong câu chuyện về Thiên Linh Cái và Bùa Chiêu Tài này, chẳng ai bỏ bùa hại vợ chồng tôi cả, chỉ có chúng tôi TỰ HẠI CHÍNH MÌNH. Chính TÂM THAM MUỐN nơi vợ chồng tôi đã vô tình chiêu dụ ma quỷ nơi bùa chú mà không hề biết.
Những gì chúng tôi có được ở thời điểm ấy đều là sự VAY MƯỢN nơi sức mạnh bùa chú, và CÓ VAY ẮT CÓ TRẢ là điều tất nhiên. Chúng tôi đã bán được đất, dùng tiền lời đất đó để tiếp tục đầu tư một lô đất khác và sau đó gặp một chuỗi may mắn trong hoạt động mua bán. Rốt cuộc, tiền lời sau hai vụ đầu tư có thể đủ để mua 1 căn nhà mặt phố – thì liền bị người ta bỏ bùa lừa mất sạch sẽ (tôi có chia sẻ trong bài số 27).
Trong câu chuyện ở bài 27, thực tế là có rất nhiều cách để chồng tôi trả món nợ tiền kiếp cho cô ấy (chồng tôi kiếp trước từng đốt nhà cô ấy, nay phải trả cho cô ấy số tiền tương ứng một căn nhà là điều tất nhiên), nhưng tại sao Bổn Nguyên lại vận hành đưa mối nhân duyên nơi họ trở thành Người Dùng Bùa và Người Bị Yểm Bùa? NGUYÊN NHÂN là bởi vì chúng tôi đã từng gieo nhân DÙNG BÙA Thiên Linh Cái và Chiêu Tài Lộc để làm nền tảng mang lại may mắn, thì mới có được số tiền ấy - nên nay nhân quả đáo đầu - khiến chúng tôi trả quả, là có người tới dùng bùa hại chồng tôi để lừa lấy hết tiền có được. Cũng là HOẠI KHÔNG cái thành quả mà 2 loại bùa đã THÀNH TRỤ trước đó, để đến giờ phút này đây, chúng tôi thấu tỏ vô cùng sâu sắc bản chất CÓ SINH ẮT CÓ DIỆT nơi muôn pháp sanh tạo từ cái tâm thức đối thể si mê nhân ngã.
Tôi cũng hiểu ra rằng, bản chất dùng bùa để chiêu dụ tài lộc, chẳng qua đó là ta cũng đang ĂN XỔI Ở THÌ, VAY MƯỢN PHƯỚC ĐỨC TƯƠNG LAI – giống như ta vì THẤY CÁI LỢI TRƯỚC MẮT mà bán lúa non, chứ không kịp chờ lúa chín. Bởi chỉ 6 tháng sau khi chúng tôi dùng bùa bán miếng đất đó đi, nó đã tăng giá gấp đôi, 2 năm sau đã tăng gấp bốn mà chẳng cần làm gì, lại lời hơn nhiều lúc mua ra bán vô. Nhưng thực tế là sau tất cả phi vụ đầu tư, chúng tôi lại trở về con số KHÔNG tròn trĩnh, gánh thêm một đống bệnh tật, tâm trí rối bời, gia đình xào xáo…
🌸🌼Từ những gì Bổn Nguyên cho tôi trải nghiệm, và học tập, tôi nhận ra rằng nếu cuộc đời ta không nhận diện được TÂM THAM LAM của chính mình, thì sẽ bị chúng sinh dẫn dắt để rồi cứ luẩn quẩn trong cái vòng vay - trả, được - mất luân hồi không đầu mối. Khi ta thường tư duy phản tỉnh chính mình thì mới chặt đứt mắt xích mà PHÁ VỠ cái vòng si mê ấy. Từ đó chúng ta mới đủ TRÍ TUỆ và sự KIÊN ĐỊNH mà dẫn dắt chúng sinh thân ta cùng nhau thăng hoa, tiến hóa - chứ không phải suốt ngày ngụp lặn trong bản ngã si mê mà học đi học lại mãi một bài học.
Do vậy, muôn pháp ta sinh tạo đều là để ta trải nghiệm, học hỏi mà thực biết bổn tâm ta nơi pháp ấy, nhằm chứng thực tiến trình THÀNH TRỤ HOẠI KHÔNG nơi pháp ta sinh tạo mà thực biết bản chất muôn pháp CÓ SINH ẮT CÓ DIỆT. Và chính tâm ý thức si mê nhân ngã tạo nên muôn pháp sinh diệt ấy mới là sình bùn NUÔI DƯỠNG HẠT GIỐNG TRÍ TUỆ THẤY BIẾT CHÂN THẬT. Để khi các pháp ấy diệt liền nở hoa tuệ giác tỏ thấu bản chất muôn pháp, minh chứng chân lý vĩnh hằng bất biến. Ấy là GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC mà chỉ ở kiếp con người với bộ não phát triển hoàn thiện, ta mới thấu tỏ chân thật được bản chất thường hằng bất biến nơi muôn pháp thông qua các vai diễn mà thôi.
Nhân Quả thành tựu tâm tham muốn,
Để ta học hai chữ vinh quang.
Đưa ta lên thấu tận mây trời,
Mà tận hưởng quyền uy, thế lực.
Diễn cảnh thành trụ pháp ta sanh,
Từ cái tôi si mê nhân ngã.
Và cũng chính cái nhân quả ấy,
Đưa ta về thực tại nhân gian.
Làm tan hoang bao cảnh huy hoàng,
Thiêu rụi sạch quyền uy thế lực.
Nơi thiện ác đối đầu xử lý,
Mà triệt tiêu thành quả tạo ra.
Đưa thành quả hoại về không xứ,
Chuyển hóa sanh pháp mới luân phiên,
Hòa dòng chảy thăng hoa tiến hóa,
Để con người chứng thực bản chất,
Pháp có sanh ắt có diệt mà.
Mà thực thấu bổn tâm nơi pháp,
Luôn an bình, tự tại thế gian.

29. NHỮNG GÌ TA BÁM CHẤP, ĐỀU TRÓI BUỘC TÂM THỨC CHÍNH TA (PHẦN 4: BÙA KUMAN THONG)
Nhân duyên đưa đẩy trong khi thiền, khiến pháp thân tôi từng đi làm việc với BÙA LINH NHI KUMAN THONG ở Thái Lan. Và trong đời sống, tôi cũng từng tiếp xúc với hai người và được Bổn Nguyên cho biết: trong tiền kiếp họ từng là người luyện loại bùa này. Nên tôi có cơ hội thấu tỏ cặn kẽ về BẢN CHẤT bùa linh nhi và NHÂN QUẢ nhất như vận hành nơi tâm thức Người Luyện Bùa.
🌼🌼 NGƯỜI THỨ NHẤT là một cậu thanh niên khoảng 25 tuổi ở Ninh Hòa mà gia đình tôi từng có dịp ghé thăm. Vì bệnh đã lâu, nên người cậu teo tóp như một đứa trẻ. Cậu ấy bị thận rất nặng, một tuần chạy thận 4-5 ngày, và có lần vì không kịp lọc máu mà bị đột quỵ, khiến cậu liệt hết 2 chân và 1 tay. Trên người chịu những mũi kim đâm và toàn thân sưng lên cục cục nhìn rất đau đớn. Thần trí cậu cũng vì bệnh tật mà mê mờ, phiền não. Gia đình lại khó khăn vì chỉ có mẹ là lao động chính, lo đủ thứ tiền từ ăn uống đến thuốc thang cho cậu.
Sau chuyến ghé thăm, chúng tôi thỉnh thoảng có liên lạc, và lần nào tôi cũng động viên cậu chăm chỉ niệm Phật, niệm “Quang Minh Như Lai Phật Tổ” mà sám hối nghiệp tội đã gây ra – vì tôi biết chắc chắn là đời này cậu đang trả nghiệp cho nhân đã gieo trong quá khứ. Khi ấy trong đầu tôi đã nghĩ sẽ tìm hiểu GỐC RỄ NHÂN NGHIỆP đó là gì – để rút ra bài học nhân quả cho chính mình - nhưng rồi không hiểu sao lại quên mất.
Bẵng đi một thời gian, trong một lần thiền, tôi được Bổn Nguyên dẫn tới Thái Lan để chứng kiến vũ trụ càn khôn vận hành thu pháp bùa chú. Tôi được đưa tới thẳng tới đầu mối sản xuất và phân phối các loại tượng, búp bê Kuman Thong, bùa chiêu tài… nằm ở đâu đó dọc dòng sông Chao Phraya. Tôi đã không thể tin vào những gì mình nhìn thấy, đó là cả một “thung lũng” rộng lớn bằng đất sét, khắp nơi từ bức vách đến đáy, đều bám lúc nhúc hằng hà sa những tâm thức hiện hình tướng như những bọc thịt đen thui, tròn tròn, bèo nhèo, được các thầy dùng để luyện bùa.
Qua tìm hiểu thì tôi được biết rằng: linh thức thai nhi là những ánh sáng yếu ớt, không đủ phước đức làm thân người nơi thế gian nên bị chết yểu; linh thức các bé không biết đường đi nên bám víu vào thân xác mà bị mắc kẹt lại. Lợi dụng điều ấy, các vị thầy bùa đã thu gom xác các bé lại, đem thiêu đốt lấy tro cốt rồi trộn lẫn cùng đất sét và NƯỚC TIỂU chính họ để luyện bùa - tạo ra hằng hà sa những cục thịt bèo nhèo như tôi thấy trong khi thiền - rồi chuyển linh thức thai nhi vào thân tướng mới như: tượng, hình nhân, vật dụng, trang sức hay búp bê… Các vị thầy bùa dùng NƯỚC TIỂU CHÍNH MÌNH để tạo thành mối liên kết tương tác tâm thức thai nhi với tâm thức mình qua dung môi nước tiểu (chứa tinh túy linh lực chính mình), tạo môi trường để nuôi dưỡng và điều khiển những linh nhi ấy. Hay nói về bản chất, thì các vị thầy bùa đang nuôi dưỡng và điều khiển linh nhi bằng tinh lực chính mình mà chẳng biết.
Các thầy bùa đã tạo ra những vẻ ngoài đẹp đẽ như tượng, búp bê, trang sức… để che đậy bản chất xấu xí mà đánh lừa thị giác của Người Dùng Bùa. Hệt như một cái vỏ bọc đẹp đẽ để che đậy cái TÂM THAM MUỐN SI MÊ NHÂN NGÃ của chính Người Dùng Bùa và Người Luyện Bùa vậy. Đó cũng là khổ nạn mà những linh thức non nớt, bé bỏng phải chịu đựng trong vòng xoáy vay trả, hận thù của con người, chờ đến khi duyên cô hồn ngạ quỷ tận, thì được giải thoát mà thăng hoa.
Khi tôi đi sâu vào “thung lũng”, tâm thức chúng sinh hòa quyện với đất sét, kết hợp với thần lực bùa chú mà tạo thành ma trận tầng tầng lớp lớp, khí đen u ám dày đặc đến mức đôi lúc khiến tôi bị mù cả thiên nhãn. Đó là một trận đấu pháp đầy khói lửa, để Bổn Nguyên thu hồi pháp bùa chú mà giải thoát cho những linh nhi bị mắc kẹt. Chuyến đi này là một mắt xích quan trọng trong hành trình vòng quanh thế giới, chứng kiến Bổn Nguyên hành pháp để giải thoát si mê cho tâm thức chúng sinh nơi chính tôi, nên tôi sẽ kể kỹ hơn về nó ở những phần sau.
* * Sau khi kết thúc, tối đó tôi đi ngủ và toàn bộ giấc mơ bất ngờ tái hiện lại GỐC RỄ NHÂN NGHIỆP nơi cậu thanh niên bị thận ấy. Tái hiện toàn bộ hành động sai trái mà cậu đã làm trong quá khứ. Bổn Nguyên đợi đến khi tôi đủ duyên trải nghiệm bùa Kuman Thong mới cho tôi câu trả lời về nhân nghiệp đã gieo nơi cậu, cốt chỉ để tôi thấu tỏ NHÂN QUẢ NHẤT NHƯ - nơi quả mà biết nhân gieo - chính xác tuyệt đối trong từng sát na nơi tâm thức con người.
Trong giấc mơ, tâm thức chúng sinh chiếu hiện lại cảnh như quay lại đoạn phim:
“Cậu đi tới gặp một người bán lu và hỏi xin một cái lu nhỏ, nói rằng xin về để muối dưa ăn với mì. Người bán lu vui vẻ cho cậu, và còn rất tận tình hướng dẫn cậu cách muối dưa, như pha nước muối thế nào, lựa loại rau cải ở địa phương nào là ngon nhất, muối trong bao lâu... Nhưng thực tế, cậu đã không muối dưa như lời mình nói, mà dùng lu ấy để trộn tro cốt của hài nhi, cùng với đất sét và NƯỚC TIỂU chính mình, đậy nắp lu để ủ và đặt trên đó một tờ bùa ngoằn ngoèo màu đỏ... Việc làm ấy đã khiến những chúng sinh đang ngồi quan sát đoạn phim phẫn nộ, họ nói rằng cậu đang “đái vào Khâm Thiên Giám Chủ”.
Tiếp đến, hình ảnh nhà cậu hiện ra, đó là một cái nhà sàn nhưng chỉ có duy nhất một cây cột chống dưới đất, hoàn toàn bằng gỗ và cửa kính. Trong nhà sáng trưng và có một cái trang thờ. Vài đứa con nít mặc đồ đen vây bên ngoài nhà, nhưng nhà đóng cửa kín mít, tụi nhỏ không thể vào được. Chúng nắm tay nhau hết tìm cách leo lên rồi lại leo xuống, hết chạy qua trái lại qua phải, cố gắng tìm cách để vào trong. Bất ngờ một cậu bé thốt lên và chỉ vào một cái túi bèo nhèo hình cái thận người màu đen, đang treo tòng teng dưới sàn nhà, rằng: “A! Phát hiện có cái túi thần kỳ này, chui vào đây là có thể vô được nhà đó!” Thế là cả đám nhỏ vỗ tay reo vang, thi nhau nhảy thoăn thoắt vô túi.”
Đến đây thì tôi tỉnh giấc. Khi ngẫm kỹ lại toàn bộ tình tiết giấc mơ, tôi mới thấu tỏ toàn bộ bài học thâm thúy, mà thông qua nhân nghiệp cậu sinh tạo, đã mang đến bài học quý giá cho chính tôi.
Cậu đã NÓI DỐI người cho lu, nói là muối dưa nhưng rồi lại dùng nó để đựng tro cốt và nước tiểu mà luyện bùa, đó là hành động LỪA GẠT ông chủ bán lu và LỪA GẠT tâm thức chính mình. Cũng chính là cậu đã xem thường, phỉ báng bổn tâm chính mình khi nói một đường, làm một nẻo. Cậu cũng phỉ báng luôn cả thành ý người đã cho cậu cái lu, và đặt mọi tâm ý để hướng dẫn cậu chi tiết cách muối dưa. Cậu đã dùng NƯỚC TIỂU chính mình để làm dung môi trộn hài cốt thai nhi với đất sét rồi chứa trong lu, ấy là cậu ĐÁI VÀO CÁI TÂM CHÂN THÀNH, chỉ vẽ nhiệt tình của người cho lu - cũng chính là đái vào lời nói xin lu về muối dưa ăn mì là BỔN TÂM CHÍNH MÌNH.
Lại nữa, PHƯƠNG PHÁP MUỐI DƯA để làm thức ăn ấy đã bị cậu dùng tâm ý ma mãnh mà chuyển thành việc MUỐI TRO CỐT HÀI NHI bằng nước tiểu và đất sét, mà phục vụ cho cái tâm tham muốn si mê nhân ngã chính mình. Ấy là cậu đã ĐÁI VÀO PHÁP THÂN KHÂM THIÊN GIÁM CHỦ. Mỗi mỗi lời nói nơi ta đều là tâm ý chính ta, cũng chính là thiên ý tạo nên muôn pháp nhân quả hình thành cuộc sống chính ta, mà GIÁM SÁT ta. Ta nói một đường mà làm một nẻo, là ta làm sai thiên ý, ấy là nghịch thiên mà chịu mọi sự thống khổ trăm bề. Cho nên, bản chất tâm thức ta là luôn thuận theo ý trời gọi là KHÂM THIÊN mà giám sát cuộc sống chính ta, gọi là GIÁM CHỦ. Tâm như gương luôn soi tỏ, phản chiếu mà chứng kiến mọi lời nói, hành động chính ta. Cho nên, ta có thể dối người, lừa mình, nhưng ta chẳng thể lừa dối bổn tâm là linh giác chính ta, cũng chính là chẳng thể lừa dối thiên ý trời đất, lừa dối chúng sinh tạo nên lực lượng đối thể xem ta diễn tuồng là vậy.
Căn nhà một cột trong giấc mơ chính là HIỆN THÂN TƯỚNG cậu ấy. Vì cậu là người luyện bùa bằng việc thường xuyên hành trì chú, nên bên trong thân tướng cậu rất sáng. Và cậu cũng sớm biết trước rằng sẽ có ngày chúng sinh tới gặp cậu để ĐÒI NỢ, nên cậu đã dụng pháp thành những tấm gương mà đóng bít các cửa ngũ căn (giác quan), để linh nhi chẳng thể thâm nhập vào ngôi nhà tâm thức cậu.
Nhưng cậu đâu ngờ rằng, trong suốt thời gian luyện bùa, cậu đem NƯỚC TIỂU làm dung môi để trộn với tro cốt thai nhi, hài nhi - cũng chính là nuôi linh nhi bằng tinh lực từ HAI QUẢ THẬN. Để rồi chính nước tiểu chứa tinh lực cậu đã tạo thành con đường mà dẫn dắt linh nhi tìm về nơi nước tiểu xuất phát, và phát hiện cái “túi thần kỳ” hình quả thận. Để rồi chúng sinh tâm thức thai nhi chui vào hai quả thận cậu tàn phá, rồi thông qua thận mà chui ngược lên thân trên, hút hết tinh lực thân tâm cậu, khiến thân xác cậu khô kiệt, bại liệt chẳng thể đi đứng được.
Nước tiểu chứa tinh lực được dùng để luyện bùa, giúp cậu THÀNH TỰU, thỏa mãn mục đích nơi TÂM THAM MUỐN SI MÊ NHÂN NGÃ - cũng chính là thứ HẠI cậu bị thận nơi kiếp người này. Những tâm ý thức đối thể - là chúng sinh xưa kia cậu tạo ra, và dùng nó can thiệp vào nhân quả người - đều quay trở lại với cậu ở đời này mà ĐÒI NỢ cậu. Đó chính là quy luật nhân quả tuần hoàn sinh tạo từ tâm tham muốn si mê nhân ngã, là tâm ý thức đối thể ắt sẽ theo đối thể mà quay lại tàn diệt luôn thân xác ta chính xác trong từng sát na. Cho nên kẻ thông minh, mưu đồ thì bị thông minh, mưu đồ hại chính mình là vậy.
* * Lại nữa, vì sao cậu lại lâm vào cảnh BỊ LIỆT CHÂN TAY, cuộc sống gắn liền với chiếc xe lăn, thiếu thốn tiền bạc, thần trí mê mờ, khổ đau, phiền não? Câu hỏi được đặt ra nơi tâm trí tôi đã được Bổn Nguyên trả lời bằng việc tái hiện lại cảnh nhân gieo nơi tâm thức cậu, được lưu giữ trong thức A Lại Da.
Tôi biết được sự thật rằng: Xưa kia cậu vì TÂM THAM LAM TIỀN BẠC mà đã kết thành băng đảng đi TÀN PHÁ RỪNG, cây lớn cây bé nhóm cậu chặt phá hết, khiến núi đồi chỉ còn trơ lại đất đá. Các cây cổ thụ - thân to bằng hai, ba người ôm - cậu chặt hết tán cây, rồi cưa thân ra thành khúc khúc để lấy gỗ bán lấy tiền xây dựng nhà cửa, thu lợi cá nhân. Cậu tàn phá rừng khiến biết bao chim muông, thú vật mất nhà cửa, tan tác gia đình, mất đi môi trường sống mà đau khổ cất tiếng kêu ai oán hận người. Cậu đã làm giàu dựa trên nỗi đau thống khổ của chúng sinh, nên kiếp sống này chúng sinh khổ đau ấy theo nhân tạo nơi tâm thức cậu mà trổ quả đến đòi lại những gì cậu đã lấy nơi họ, để cậu trả sạch những gì mà cậu đã vay mượn nơi chúng sinh mà thôi. Đó gọi là LÀM CHÚNG SINH ĐAU KHỔ CŨNG CHÍNH LÀ LÀM CHÍNH TA ĐAU KHỔ vậy.
Ta làm cho chúng sinh thế nào thì chính ta sẽ bị như thế ấy mà tạo nên cuộc sống chính ta. Cậu phá rừng, cưa cành, chặt thân các cây cổ thụ là NHÂN - cậu bị hủy hoại tay chân là QUẢ mà chúng sinh đến ĐÒI NỢ cậu. Cậu chỉ còn ngồi dính một chỗ trên chiếc xe lăn cũng là để cho cậu trải nghiệm cuộc sống và cảm giác của một cái cây gắn liền với nơi nó sống. Thần trí cậu mê mờ, đau buồn, sầu thảm vì thấy mình vô dụng cũng là để cho cậu cảm nhận nỗi đau đớn mất mát của chúng sinh xưa kia bị cậu phá hoại môi trường sống. Gia đình cậu nghèo túng, có bao nhiêu tiền là cha mẹ cậu lại đổ vào mua thuốc thang chạy chữa cho cậu - đó cũng là cách để cậu TRẢ SẠCH những đồng tiền mà xưa kia đã kiếm được từ nỗi đau khổ của chúng sinh - và cũng là cách làm cho gia đình cậu khổ đau, phiền não hệt như nỗi khổ mất nhà của chúng sinh xưa kia.
* Tất cả những việc ta làm dù là thiện hay ác, dù là lớn hay nhỏ, dù là bí mật hay công khai, đời đời kiếp kiếp đều được thức a lại da sao chụp, ghi chép lại hết KHÔNG HỀ SAI LỆCH – rồi vận hành NHÂN QUẢ NHẤT NHƯ mà trổ quả tạo nên cuộc sống ta chính xác tuyệt đối trong từng sát na. Tất cả những gì cậu trải qua đều là quả nơi nhân quá khứ mình đã gieo tạo, cốt cũng để cậu hồi quang phản tỉnh mà nhận ra BÀI HỌC VỀ NHÂN QUẢ CHÚNG SINH NƠI TÂM THỨC CHÍNH MÌNH, nhằm thấu tỏ nỗi đau khổ của chúng sinh thông qua nỗi đau khổ chính mình. Từ đó ta sẽ thực biết YÊU THƯƠNG CHÚNG SINH, không vì niềm vui hạnh phúc ích kỷ chính mình mà khiến chúng sinh đau khổ.
Khi ta trả nghiệp, ta không hề biết tư duy phản tỉnh để sám hối cái nhân đã gieo - lại luôn sinh tâm oán trách trời đất, số phận, trách người, mà tạo thêm nghiệp - thì sẽ chẳng bao giờ trả quả xong. Để rồi nghiệp đối thể cứ tiếp tục sinh tạo chồng chất, khiến ta đời đời kiếp kiếp cứ xoay vần vay trả - trả vay ở cái nhân đã gieo, mà mãi trôi lăn học lại hoài gọi là LUÂN HỒI. Ngược lại, khi ta hiểu ra gốc rễ nhân nghiệp chính mình, biết thành tâm sám hối ăn năn, tinh tấn niệm Phật; biết vui vẻ chấp nhận bệnh tật, và mọi việc đen đủi xảy ra nơi cuộc sống chính mình. Gốc rễ nhân nghiệp sẽ nhanh được soi tỏ, năng lượng tích cực từ cái tâm hoan hỷ sẽ giúp cho ta vượt thoát mọi đau khổ, phiền não, giúp ta nhanh trả dứt nghiệp mà được phước báo về sau.
🌸🌸 NGƯỜI THỨ HAI tìm đến tôi vì căn bệnh đau nhức xương khớp bẩm sinh, đặc biệt là cột sống. Anh cũng bị đau hai bên thận nữa. Lưng anh hơi còng, người lúc nào cũng trong trạng thái bơ phờ, mệt mỏi không còn năng lượng. Cuộc sống anh vô cùng đen đủi khi tai bay vạ gió, mất mát cứ tới tấp ùa đến. Anh là người tu hành chân chính và rất sáng dạ. Một lẽ dĩ nhiên là anh biết mình đang mang thân bệnh như thế này là để trả nghiệp gì đó, nhưng không biết quá khứ mình đã phạm tội gì.
Sau một thời gian tiếp xúc, tôi được Bổn Nguyên cho biết rằng kiếp trước anh làm nghề thầy pháp, chuyên lấy linh thức thú rừng, thai nhi để luyện ra các tượng, hình nhân, Kuman Thong. Vẫn theo nguyên lý luyện bùa Kuman Thong, anh dùng NƯỚC TIỂU chính mình để kết nối tâm thức anh tạo thành môi trường nuôi dưỡng, trói buộc linh nhi, để linh nhi làm theo tâm ý mình.
Khi được thấu tỏ gốc rễ gây ra chứng đau nhức xương, anh đã cùng tôi thiền sám hối về hành động luyện bùa xưa kia nơi chính mình. Tôi đã thấy hai thanh kiếm: 1 thanh găm ngang và 1 thanh găm dọc tạo thành hình chữ thập xuyên qua cột sống anh. Chúng đã nằm đó từ rất lâu rồi và đã mục sét. Hai thanh kiếm ấy theo lời niệm Phật mà xoay tròn và dần rút ra, biến mất. Chúng sinh đàn đàn lũ lũ ở trong cột sống anh theo cái lỗ kiếm vừa rút ấy mà thoát ra, hóa khí giải thoát. Hóa ra bấy lâu nay anh nuôi nhốt âm binh ở trong CỘT SỐNG chính mình, và số âm ấy đã bòn rút năng lượng từ xương tủy mà nuôi dưỡng họ. Việc làm ấy luôn được Bổn Nguyên ẩn dụ bằng cảnh trong mơ, rằng anh ngày ngày chặt các khúc xương của chính mình để hầm lấy nước lèo mời chúng sinh ăn đó vậy.
Tôi cũng thấy hai trái thận anh bị chúng sinh đeo bám mà mang màu đen kịt. Cũng theo từng câu niệm Phật, ánh sáng rạch một đường trên mỗi trái thận và chúng sinh đen bay ra nghi ngút, chuyển thành khí trắng mà giải thoát.
Ngay đêm hôm ấy anh đã nằm mơ, thấy mình xách trên tay xô xi măng và tích cực đi trám những cái hố trong sân nhà mình, ấy là thể hiện quyết tâm sám hối, tạo ra năng lượng để lấp đầy lại những lỗ thủng vì bị chúng sinh bám chấp đào khoét, để rút dần tinh lực nơi tâm thức anh. Kể từ đó, anh luôn tích cực hành trì , mở rộng TÂM YÊU THƯƠNG chúng sinh đang bị bệnh khổ nơi mình mà niệm “Quang Minh Như Lai Phật Tổ”, nguyện chúng sinh si mê nương theo ánh sáng Quang Minh Như Lai Phật Tổ mà giải thoát.
Theo thời gian, sự tinh tấn chăm chỉ nơi anh đã bắt đầu có kết quả! Một đêm nọ, anh bất ngờ nằm mơ thấy mình cầm đèn pin đi trong đêm tối, trên một con đường rộng thênh thang. Anh thấy hai bên đường có vô số XÁC THAI NHI nằm chồng chất, có bé bị dòi bu đầy người, có bé bị cây mọc đâm xuyên qua xác, có bé bị phân hủy thối rữa…nhìn thật đáng thương. Anh thấy thương quá thì liền cất tiếng niệm Phật, cứ vừa đi vừa niệm thì bỗng như có một lực kéo rất mạnh từ phía các thai nhi, khiến cho anh không thể đi nhanh được. Anh cứ niệm Phật mãi cho đến khi tỉnh giấc.
Tỉnh dậy anh thấy sợ hãi, và nhắn cho tôi. Khi đó tôi đã thiền hỏi Bổn Nguyên và nhận ra câu chuyện cảm động về quá khứ của anh, từ đó giúp tôi hiểu thêm về anh nhiều hơn. Đó là xưa kia anh hành hạnh của Bồ Tát Di Lặc, có HẠNH NGUYỆN độ linh thức thai nhi và động vật. Linh thức anh từ xưa đến nay vẫn luôn mang một cái túi, để giúp anh thu hút tâm thức chúng sinh ở bất cứ nơi đâu anh lui tới. Trong tiền kiếp, vì lượng tâm thức anh thu về quá nhiều, nhưng chỉ biết thu mà không có phương tiện giải thoát tận cùng, nên anh đã chuyển tâm thức chúng sinh vào vô số tượng, hình nhân… để họ được thương yêu và tạo phước đức bằng việc giúp đỡ chủ nhân. Bổn Nguyên đã ví số tâm thức anh thu về nhiều như mây trắng trên trời, và số tượng anh tạo ra chồng chất nhiều như cây cỏ trong núi rừng…
Khi đó tôi mới hiểu ra rằng anh đã từng luyện bùa bằng TẤM LÒNG TỪ BI CHÂN THẬT, nhưng vì anh làm theo thấy biết si mê đối thể, nên giải quyết công việc không rốt ráo mà còn tạo nghiệp CAN THIỆP NHÂN QUẢ - làm con nợ không đòi được nợ người liền quay lại đòi anh. Kiếp này tuy anh có bệnh tật, đen đủi, nhưng anh vẫn có khả năng lao động kiếm sống, trí tuệ anh vẫn rất sáng suốt để tiếp tục con đường tu hành.
MỤC ĐÍCH LUYỆN BÙA nơi anh hoàn toàn bằng TÌNH YÊU THƯƠNG, muốn giúp người và giúp đời, giúp người chiêu tài lộc, cầu may mắn và giúp các linh nhi thiếu phước được sưởi ấm bằng tình thương yêu của cha mẹ nuôi. Anh luyện bùa bằng TÂM THƯƠNG YÊU chúng sinh chân thật chứ không phải bằng cái tâm tham muốn danh lợi. Vì vậy mà những linh nhi nhận được tình yêu thương nên không oán hận anh, chúng tìm đến anh cũng chỉ để nhờ anh giúp chúng, theo hạnh nguyện cứu vớt linh thức thai nhi nơi anh.
Bởi anh gieo nhân dùng tinh túy linh lực từ nước tiểu để trộn hài cốt thai nhi với đất sét làm bùa nuôi dưỡng linh nhi, nên quả theo nhân trổ, anh bị mất tinh lực mà đau hai quả thận là tất nhiên. Anh đem linh lực nơi anh giúp chúng sinh sống, ắt anh phải chịu mất linh lực mà thọ khổ bệnh nơi thân xác, mà thể hiện tình yêu thương chúng sinh nơi anh. Đó là anh đã mang Tâm Bồ Tát yêu thương chúng sinh, chịu mọi khổ nạn mà giúp chúng sinh bớt khổ. Do vậy, anh chỉ thọ khổ nơi thân bởi cái tội can thiệp vào nhân quả nơi người - khiến các tâm thức đối thể nơi người quay lại đòi nợ anh, còn tâm thức anh tràn đầy tình yêu thương chúng sinh mà hạnh phúc nơi tình yêu thương ấy.
Bởi anh tu hành chân thật, nên ngay trong lúc bế tắc, khổ đau thì có người tới giúp anh sám hối, hướng dẫn anh GIẢI THOÁT SI MÊ và MỞ RỘNG TÂM TỪ BI YÊU THƯƠNG chúng sinh nơi bổn tâm mình, mà tiếp tục nhận lại HẠNH NGUYỆN năm xưa - hệt như “con đường rộng thênh thang” anh thấy mình đang đi trong giấc mơ. Giờ đây anh và tôi luôn hỗ trợ qua lại lẫn nhau, anh thu gom chúng sinh theo khả năng chính mình, khi nào túi đầy thì tôi lại thiền sang trợ lực để anh giải thoát cho họ.
* * Từ hai câu chuyện trên, ta thấy rằng trong quá khứ cả hai người cùng luyện bùa linh nhi, rồi đời này họ không luyện bùa nữa mà sống để thọ khổ nhân quả nơi bùa chú ấy. Tuy nhiên mức độ thọ khổ mỗi người mỗi khác, bởi BỔN TÂM Ở MỤC ĐÍCH LUYỆN BÙA HOÀN TOÀN KHÁC NHAU: Một người vì phục vụ tâm tham muốn si mê nhân ngã là tâm thức ích kỷ, hẹp hòi - ắt trổ quả gánh chịu mọi khổ nạn nơi thân tâm chính mình mà cạn kiệt sức khỏe, làm người tàn phế cả thân và tâm. Một người vì tấm lòng từ bi chân thật luôn giúp chúng sinh khổ nạn - nên quả trổ chỉ bệnh nơi thân là do gánh nghiệp cho chúng sinh, khi gặp được thiện hữu tri thức trợ duyên liền khôi phục nghị lực và ý chí mà vực dậy sức khỏe, nhớ lại hạnh nguyện mà hành trì tinh tấn chân thật, giúp cho chúng sinh nơi mình giải thoát, cũng chính là khôi phục lại tinh lực đã mất mà phát triển tuệ giác để chẳng còn gieo nhân quả lầm mê.
Bản chất Bổn Nguyên nương theo ý thấy biết nhân sinh tạo nên các pháp bùa thai nhi, bùa chú chiêu tài, cũng chỉ để gom tất cả các linh thức thai nhi về một mối, để chúng sinh chịu mọi khổ nạn giúp người mà tạo công đức cho chính mình. Khi công đức đã đủ, khổ nạn chấm dứt, ấy là đủ duyên gặp người vượt thoát tâm đối kháng mà giúp chúng giải thoát quy về chân Quang Minh Như Lai Phật Tổ học đạo mà thăng hoa tiến hóa.
Vậy mới nói, nhân quả không hề có tốt hay xấu, nhân quả nhất như giúp triệt tiêu cái tâm si mê nhân ngã, để sau cùng là giáo dục con người quay về bổn tâm chân thật chính mình. Khi pháp bùa chú thông qua người vượt thoát tâm đối kháng mà quy về Bổn Nguyên hoại diệt, tùy theo bổn tâm rộng hẹp mà người tạo nên pháp bùa chú học được cái thấy biết rộng hẹp khác nhau: tâm hẹp thì học thấy biết hẹp, tâm rộng thì học thấy biết rộng tương ứng. Nhân quả nhất như giúp ta nhận ra bài học giá trị cuộc đời, để rồi khi giải thoát nhân quả, ta sẽ trổ hoa tuệ giác thấy biết chân thật mà thăng hoa tiến hóa. Đó mới là ý nghĩa đích thực nơi muôn pháp sinh tạo từ thấy biết con người được Bổn Nguyên vận hành nơi thế gian.
🌷🌷🌷NHÂN TA GIEO SAO, ẮT TRỔ QUẢ Y VẬY. Ta gieo nhân tham muốn vọng cầu, ắt sẽ nhận về quả là phản lực để triệt tiêu cái nhân đối thể ấy. Còn khi ta biết gieo nhân bố thí để xã ly tâm tham muốn, biết gieo nhân hy sinh bản thân mà thành tựu cho người ắt trổ quả an lạc, hạnh phúc nơi cảnh sang giàu mà không đắm nhiễm, tiếng thơm đức hạnh lưu truyền mãi về sau để nhân thế học hỏi. Ấy là con người sống bằng tâm chân thật mà thọ hưởng nhân quả gieo tạo, luôn an bình hạnh phúc nơi nhân quả nhất như mà thăng hoa tiến hóa. Rõ y vậy, ta chẳng sinh tâm tham muốn vay mượn nhân quả nơi người, để rồi theo vòng xoáy vay trả nhân quả mà luân hồi để học hoài bài học ấy.
Mỗi ngày trôi qua, Bổn Nguyên đều theo ý nơi tôi, mà vận hành tạo nên muôn pháp đối thể cho tôi trải nghiệm, học tập, để tôi thấu tỏ rằng: Bản chất tâm ý thức đối thể nơi thấy biết con người luôn là hợp nhất, tạo nên chánh nhân hình thành sắc tướng con người. Bổn Nguyên cho tôi thực chứng được bổn tâm tôi nơi các pháp ấy mà hiển bày bản chất CÓ SINH ẮT CÓ DIỆT là thường hằng bất biến để tôi luôn BÌNH AN, TỰ TẠI trước muôn pháp sinh diệt nơi thế gian.

30. NHỮNG GÌ TA BÁM CHẤP, ĐỀU TRÓI BUỘC TÂM THỨC CHÍNH TA
(PHẦN 5: TÂM THỨC NGƯỜI TỰ TỬ)
Một buổi tối khi thiền, tôi và Bạch Long được Bổn Nguyên tác ý để đi hành pháp giải thoát si mê cho tâm thức chúng sinh bị mắc kẹt tại vùng cửa biển Tháp Bà Ponagar (cầu Trần Phú, thành phố Nha Trang). Sau khi tôi hành pháp xong, một số tâm thức chúng sinh tự tử nơi biển vì sự bám chấp quá sâu dày mà vẫn còn kẹt lại, và ở trong thân tôi. Khi tôi ngủ, họ đã tái hiện lại toàn bộ cảnh bế tắc dẫn đến TỰ TỬ để tôi biết mà giúp họ tháo gỡ các khúc mắc. Theo dòng chảy tâm thức dập dềnh như sóng biển, những thước phim hiện ra nối tiếp nhau, y như cho tôi xem một bộ phim tâm lý xã hội đầy kịch tính và không kém phần kinh dị:
“Một người phụ nữ hoàn cảnh khó khăn, nuôi cha già bị bệnh, cô mua một đĩa cơm tấm mà chỉ ăn cơm không với một ít trứng, còn lại cô nhường cho cha phần cơm có thịt. Rồi hiện cảnh một toán người tới đập phá tan nát nhà cửa, chửi bới siết nợ… rồi đến cảnh cô gieo mình xuống biển.
Tiếp tục một người đàn ông nhảy cầu vì thua độ trong SEAGAME 23; tiếp đến là cảnh trong đêm khuya, một người đàn ông bị người ta rượt đuổi, trong lúc bức bí đã nhảy cầu trốn chạy; rồi cảnh một cô gái bị ép làm nghề mại dâm, bị người ta đánh đập, cưỡng hiếp, vì quá buồn khổ mà nhảy cầu diệt thân; rồi một cô gái có bầu bị vợ người yêu đánh ghen, lăng mạ, vì hận tình - hận đời mà tự tử…
Tiếp tục là cảnh khổ của một người tự xưng là Vợ - không – danh – phận với một người quan chức thời kháng chiến chống Mỹ. Đoạn phim tái hiện lại toàn bộ tâm trạng bức bách, buồn rầu nơi tâm thức bà ấy. Bà có một người con chung với ông, nhưng không được nhìn nhận mặc dù đã cố gắng nhờ người viết thư liên lạc. Mẹ con bà bị gia đình và xã hội bỏ rơi và sống một cuộc đời cơ cực, côi cút không có người thân. Rồi bế tắc cứ thế chồng chất, bà ôm trong lòng sự tủi hờn cho số phận và TRÓI BUỘC mình vào những kỷ niệm đau buồn nơi tình yêu quá khứ mà gieo mình xuống dòng nước ở vùng cửa biển Nha Trang này.
Cuối cùng, đoạn phim kết thúc bằng tâm thức được lưu giữ nơi một người phụ nữ, đó là cảnh nhà cô ấy là một cửa hàng cơ khí trên đường Sinh Trung. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả, đó là cái chết của cô ấy có MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ với một người bạn của chồng tôi, và đứa con gái 5 tuổi của anh ấy. Khi xem đến đây thì tôi tỉnh giấc.”
Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau nhưng đồng chung nỗi đau khổ dồn nén, cùng cực mà đi đến bế tắc, dẫn đến quyết định kết liễu cuộc đời mình. Họ tưởng rằng CHẾT là chấm dứt phiền não nơi cuộc sống, nhưng sự thật đã chứng minh: Họ chết đi, nhưng TÂM THỨC khổ đau, bế tắc CHẲNG THỂ CHẾT. Nó sống mãi nơi tâm thức họ, mà hành hạ họ chịu khổ sở không nguôi. CHẾT chỉ làm cho tâm thức họ BỊ TRÓI BUỘC nơi ý niệm bế tắc ấy, làm họ chịu cô đơn lạnh lẽo chẳng thể giãi bày cùng ai, rồi cứ ôm mối hận khổ đau mà làm oan hồn uổng tử nơi biển cả, chịu đói, chịu rét, chẳng thể giải thoát.
Sáng hôm sau, tôi đã đem toàn bộ giấc mơ kể cho Cô nghe và xin lời khuyên để giúp tháo gỡ những bế tắc cho các Tâm Thức Bị Mắc Kẹt ấy.
* Sau đó, tôi đã thiền và gửi những ý nghĩ đến cho những tâm thức tự tử vì bị vây đuổi, đánh đập, lăng mạ, siết tài sản, dọa giết… hiểu rằng:
Tất cả những bế tắc, khổ đau mà ta trải qua đều là những gì TA ĐÃ SINH TẠO trong quá khứ ở KIẾP NÀY hay TIỀN KIẾP. Ta đã từng làm chúng sinh đau khổ - thì nay nhân quả vận hành nhất như - để chúng sinh khiến ta đau khổ y vậy mà thấu hiểu cảm giác. Chính ta là người đã khởi tạo ra những món nợ ấy, ta nợ họ thứ gì, họ đến đòi ta thứ đó CHÍNH XÁC TUYỆT ĐỐI nơi quy luật vay trả rất sòng phẳng.
Thực tế là chỉ cần có THÂN NGƯỜI, thì ta đã có đầy đủ khả năng để trả nợ: họ đòi tình thì ta trả tình; họ đòi danh dự thì ta để họ lăng mạ; họ đòi tiền, ta không có tiền thì họ siết nhà, họ đánh đập, chửi bới, kiện ta ngồi tù, hay đòi luôn cả mạng sống chính ta. Xét cho cùng, tất cả đều là cách để ta trả lại toàn bộ những gì mà ta đã nợ họ.
Nhưng ta lại không nhận ra điều đó mà hoan hỷ chấp nhận - lại tự kết liễu đời mình - ấy là đã trở thành một kẻ HÈN NHÁT, TRỐN TRÁNH TRÁCH NHIỆM trước mọi ý nghĩ và hành động mà mình sinh tạo, biến ta thành một kẻ trốn nợ, sống trốn chui trốn nhủi. Để rồi khi chết đi, món nợ ấy vẫn chưa giải quyết xong, Tâm Thức Bị Mắc Kẹt (hóa thân) của ta luôn bị bủa vây, giam cầm bởi những ý niệm bế tắc, khổ đau, mà chịu sự thống khổ đời đời kiếp kiếp, chẳng thể giải thoát. Còn linh thức ta khi được tái sinh - vì tâm thức ta với chủ nợ luôn nhớ nhau mãi mà tìm gặp nhau - tiếp tục cái vòng luẩn quẩn VAY TRẢ MÀ LUÂN HỒI chẳng bao giờ dứt.
Còn khi ta hoan hỷ trả nợ, ắt sẽ mau dứt nợ. Tất cả cũng là để ta nhận ra rằng: ta tạo ra nợ và đối mặt giải quyết nó với một tâm thế đầy TRÁCH NHIỆM, thì chính ta cũng sẽ là CHỦ NỢ mà giải quyết món nợ do chính ta tạo ra. Khi ta hoan hỷ chấp nhận trả nợ, cũng chính là ta sẽ TRẢ SẠCH những món nợ ân oán với người, tâm thức ta ung dung tự tại vào sinh ra tử mà tái sinh, thăng hoa một kiếp sống mới tốt đẹp hơn.
* Tôi cũng đã nói riêng với người Vợ - không – danh – phận ấy, cũng như những người phụ nữ tự tử vì tình yêu dang dở khác rằng:
“Việc bà gặp ông ấy để yêu nhau và sinh ra một đứa con đều là do TÌNH YÊU THƯƠNG TÌNH NGUYỆN giữa hai người, và cả hai đã có sự hạnh phúc nơi tình yêu đơm hoa kết trái bằng một đứa con.
Nhưng việc vợ chồng sống đời với nhau đều là do duyên nợ, duyên nợ sâu dày thì làm vợ chồng nhiều đời nhiều kiếp, duyên nợ hạn hẹp thì làm vợ chồng vài kiếp, cho đến khi có duyên mà không nợ thì yêu nhau chỉ để giải quyết những gì chưa thỏa mãn nhau rồi lại rời xa nhau. Bởi bà và ông ấy chỉ nằm trong nhân duyên yêu nhau và tạo nên đứa con, cũng chỉ để giải quyết những gì mà tiền kiếp bà muốn mà ông chưa làm được với bà, chứ thật sự hai người không có nợ để kết thành vợ chồng mà trả nợ lẫn nhau.
TÂM THAM MUỐN con người là vô tận, trong khi gặp nhau để thỏa mãn những gì nơi quá khứ chưa thỏa mãn, thì lại SINH TẠO THÊM THAM VỌNG mà luôn thấy không thỏa mãn, để tự làm khổ chính mình. Trong khi cuộc sống con người đều do NHÂN QUẢ VẬN HÀNH mà quyết định chứ chẳng theo ý muốn nơi ta, để rồi ta thấy mọi việc xảy ra BẤT NHƯ Ý mà sinh niệm OÁN TRÁCH người, TRÓI BUỘC người mà tự gây đau khổ cho chính mình. Để rồi ta cứ si mê, chẳng thể sống được cùng những nhân duyên tiếp nối thực tại mà tìm thấy hạnh phúc đích thực.
Đừng biến TÌNH YÊU TỰ NGUYỆN đến với nhau giữa bà và ông thành TÌNH YÊU TRÓI BUỘC NHAU mà đau khổ. Để rồi cứ xoay vần, cuốn trôi đời mình vào vòng xoáy mê tình mà đánh mất khả năng làm chủ chính mình - là khả năng tự chịu trách nhiệm trước mọi hoàn cảnh sống - mà vực dậy năng lực sống luôn tái sinh, TỰ XOAY CHUYỂN CUỘC ĐỜI CHÍNH MÌNH theo chiều hướng tích cực mà thăng hoa tiến hóa.”
Tôi đã dành thời gian rất lâu để giải thích cặn kẽ cho tất cả những Tâm Thức Bị Mắc Kẹt trên thân tôi hiểu, cuối cùng thì họ cũng nhận ra những bế tắc đều là DO CHÍNH MÌNH sinh tạo, là TỰ MÌNH HẠI MÌNH chứ chẳng phải ai khác. Họ liền CỞI BỎ TRÓI BUỘC nơi các ý niệm khổ đau mà theo lời niệm Phật, hóa thành ánh sáng mà giải thoát về cảnh giới mới tốt đẹp hơn.
🌸🌸 Sau khi thấy họ đi xong, tôi cứ ngỡ là đã kết thúc – NHƯNG KHÔNG - vẫn còn sót lại người phụ nữ mà có mối quan hệ nhân quả với người bạn của chồng tôi. Và toàn bộ câu chuyện nhân nghiệp đều được tái hiện lại chi tiết ở giấc mơ ngày hôm sau.
Đầu tiên, để tôi nói thêm về gia đình anh ấy hiện tại. Hai vợ chồng rất nhân hậu, họ thường xuyên làm việc thiện nguyện và rất tin vào Phật pháp, thường xuyên niệm Phật. Và người con gái 5 tuổi của họ đã là mối nhân duyên khiến họ làm điều đó – bởi cô bé bẩm sinh đã bị UNG THƯ MÁU. Vì muốn cho con có điều kiện chữa trị tốt nhất nên gia đình đưa bé qua Singapore từ 4 năm trước, người vợ thuê nhà ở hẳn bên đó để tiện chăm sóc con, còn người chồng thì đi đi về về, trong lòng muộn phiền, buồn đau, bao nhiêu tiền của đều đổ ra để lo cho cô bé. Tôi chỉ nghe chồng mình kể lại về anh ấy chứ chưa gặp mặt bao giờ, nhưng trong lòng luôn cảm thấy thương cảm, vì nghĩ rằng hai vợ chồng hiền đức vậy mà sao gặp hoàn cảnh đáng thương quá.
Nhưng rồi tôi lại kinh ngạc và bàng hoàng, khi biết về quá khứ tiền kiếp của anh ấy thông qua giấc mơ mà tâm thức người phụ nữ chết ở biển kia tái hiện lại. Khi xưa, nhà cô ấy khá giả, và cô là chủ một cửa hàng cơ khí trên đường Sinh Trung. Khi ấy, cô đang ngồi trông tiệm thì một người đàn ông bặm trợn, mặc áo trắng đã xộc thẳng vô nhà giả vờ mua hàng. Thấy vị khách này sao đường đột quá, và cảm thấy trong lòng bất an, cô liền vội tìm cách đẩy ông ta ra và cố gắng đóng cửa nhà lại. Vừa lúc đó, 4-5 người đàn ông nữa chạy tới, trên tay cầm dao, gậy gộc tới đập phá cửa nhà, lục soát từng phòng mà cướp sạch mọi thứ.
Cô ấy đã vô cùng sợ hãi, vội vã cùng chồng và con gái mình chạy trốn vào phòng và tìm mọi cách để khóa cửa, lấy bàn ghế chắn cửa lại để giữ tính mạng. Cô ấy đã sợ hãi, hoảng loạn tột độ, nỗi sợ hãi lớn đến mức cả cuộc đời tôi chưa từng có giấc mơ nào chứa nỗi sợ kinh khủng đến thế.
Tôi không rõ sau đó gia đình cô ấy ra sao, nhưng khi đi sâu vào tìm hiểu tâm thức cô ấy lúc tự tử, Bổn Nguyên hiện cảnh một cánh cửa đóng sầm lại, không gian trước mắt mịt mờ sương khói, rồi mọi thứ trở nên tối đen… Đó là một cảm giác bế tắc, đau buồn khi nghĩ về tương lai, mờ mịt, tăm tối… Cuối cùng, cô đã gieo mình xuống nước tự tử, và để lại phần tâm thức bị mắc kẹt vào cái ý niệm đau buồn, mờ mịt ấy nơi cửa biển này.
Bổn Nguyên còn cho tôi biết, hóa ra cô ấy chính là một trong những VAI DIỄN ở các kiếp làm người nơi chính tôi. Và Tâm Thức Bị Mắc Kẹt tự tử chết tại biển Nha Trang ấy chính là một trong những hóa thân nơi tôi đang chịu cảnh đau đớn bởi ý niệm bế tắc, và thọ cảnh khổ chịu đói, chịu rét dưới biển gần 200 năm qua. Mãi cho đến đời này, khi pháp thân tôi đầy đủ trí tuệ, thấu tỏ được bản chất muôn pháp, mới có thể quay lại dụng tánh thể thanh tịnh Bổn Nguyên qua chân ý niệm Phật, soi tỏ gốc rễ si mê mà giải thoát cho cô ấy.
Còn cô bé con gái anh hiện giờ đang bị ung thư máu, cũng là một vai diễn hóa thân nơi pháp thân tôi được Bổn Nguyên trích xuất từ nhân nghiệp lưu lại nơi thức a lại da. Theo nhân duyên vay trả vận hành, tôi tới để đòi nợ tất cả những gì anh đã gây ra cho tôi trong quá khứ. Do vậy, tôi đóng vai làm người con bị bệnh ung thư, anh vì TÌNH YÊU THƯƠNG CON GÁI mà dốc sạch tài sản để chữa chạy cho con, gia đình anh ly tán, mỗi người mỗi nơi, tâm trạng anh đau đớn, lòng anh luôn quặn thắt trước cơn bạo bệnh nguy hiểm mà cơ thể bé nhỏ con anh phải chịu. Anh cảm thấy mịt mờ khi nghĩ về tương lai con anh, tương lai của chính vợ chồng anh khi căn bệnh hiểm nghèo ấy chẳng thể nào chữa khỏi. Anh đang gánh chịu nỗi đau khổ tột cùng - cũng chính là nỗi đau khổ tột cùng mà anh đã gieo cho tôi trong quá khứ. Bao nhiêu tiền làm ra đều đổ dồn lo bệnh cho con anh – là hóa thân của tôi, cốt cũng để anh trả hết toàn bộ món nợ anh đã cướp bóc xưa kia. Quy luật vay trả nơi chân lý nhân quả nhứt như rất công minh tuyệt đối, anh gieo nhân gây tạo nỗi sợ hãi, đau đớn, mịt mờ nơi người - ắt trổ quả thọ nhận lại sự đau đớn dai dẳng, giằng xé tâm can anh trước đứa con bị bạo bệnh.
* Nhưng tại sao Bổn Nguyên lại vận hành nhân quả không phải đơn thuần là: tôi đòi nợ bằng việc đi cướp lại tài sản đã mất, mà lại trích xuất hóa thân nơi tôi ra đóng vai đứa con bị ung thư máu của anh ấy? Nguyên nhân là vì, tất cả các vai diễn cũng chỉ để thành tựu những lời phát nguyện nơi tôi rằng: "Tất cả những ai gặp tôi đều vì tình yêu thương tôi mà hướng tâm đến các việc thiện lành, thấu tỏ nỗi đau khổ tôi đang gánh chịu, mà gieo hạt giống bồ đề tầm cầu chân lý vô thượng, tìm hiểu rõ nguyên nhân gây tạo đau khổ mà thoát khổ".
Giờ đây, khi nhìn lại quá khứ và hiện tại, tôi đã thấy anh đã HOÀN TOÀN THAY ĐỔI. Xưa kia anh ấy là kẻ bặm trợn, đi cướp tài sản của người khác - nhưng nay, anh vì TÌNH YÊU THƯƠNG CON mà tự nguyện trả nợ nghiệp xưa bằng tất cả TẤM LÒNG CHÂN THÀNH; anh xông xáo chẳng ngại khó khăn đi làm các việc thiện nguyện; anh thường xuyên ăn chay, niệm Phật để sám hối và hồi hướng công đức cho con. Anh đã trả nợ bằng tất cả bổn tâm chân thành, cũng là cách Bổn Nguyên theo tâm nguyện nơi tôi mà vận hành tâm thức anh trong khi trả quả đều tạo sự vun bồi đức hạnh, làm hành trang cho sự sống tiếp nối tầm cầu chân lý vô thượng, là thấy biết chân thật THẤU TỎ NGUYÊN NHÂN tạo khổ đau mà GIẢI THOÁT khổ nơi anh. Tất cả đều là nhờ Bổn Nguyên vận hành NHÂN QUẢ ĐÁO ĐẦU để anh vừa trả nghiệp, vừa là duyên tạo hạt giống thiện lành bước thẳng tiến trên con đường tu hành chân chính.
* Tôi cũng nhận ra rằng: Sự vay trả nợ nần chẳng qua chỉ là cái DUYÊN KẾT NỐI tâm thức ta và người, giúp ta và người có mối quan hệ thân bằng quyến thuộc mà yêu thương, lo lắng, giúp đỡ lẫn nhau. Ví như chỉ có cha mẹ mới là người yêu thương đứa con của mình bằng sự tận tụy, hy sinh tất cả sức lực, tiền bạc và cả sinh mạng chính mình mà giúp con hết bệnh, giúp con thành tựu mọi tâm nguyện ước muốn chính mình. Chỉ có cha mẹ mới vì sự khổ đau nơi con mà chân thành gieo tạo hạt giống bồ đề, tầm cầu chân lý là thấy biết sự thật. Tầm cầu chính là sự tìm hiểu để THẤU TỎ NGUYÊN NHÂN tạo nên sự khổ đau, mới GIẢI THOÁT khổ mà hết khổ. Đó là CHÂN LÝ TỨ ĐẾ: từ khổ mới thấu được nguyên nhân huân tập khổ mà giải thoát tập khổ, chính là diệt khổ, vượt thoát si mê nhân ngã mà tỏ đạo. Ấy là chân lý bất di bất dịch mà một BẬC GIÁC NGỘ nào cũng phải CHỨNG THỰC, mới TỎ THẤU mà HƯỚNG DẪN con người đi trên con đường tỉnh thức giải thoát si mê được. Đó là lý do vì sao tôi theo nhân duyên vay trả mà nguyện làm đứa con của người cướp sạch gia sản nhà tôi.
* Ngoài ra, thông qua câu chuyện này, tôi cũng được Cô giải thích cho hiểu ra rằng: tài sản, tiền bạc mà con người tạo ra đều theo NĂM THỨ ngoại cảnh tác động mà suy hao, mất mát, tan hoại: Thứ nhất là trộm cướp, thứ hai là con hư đốn phá gia chi tử, thứ ba là quan quyền áp bức tranh đoạt, thứ tư là bệnh tật, thứ năm là lũ lụt thiên tai. Vậy nên, việc ta bị cướp đều nằm trong năm thứ tất yếu nơi nhân quả con người vận hành mà hiển bày. Cũng để cho ta thấu hiểu rằng, những thứ tiền bạc, tài sản do ta tạo ra đều để phục vụ cho cuộc sống con người trong nhân duyên chính nó.
Ta bị cướp cũng là tai nạn, mà nhân quả nơi ta vận hành để ta biết rằng: đồng tiền mà ta tạo ra không chỉ phụng sự cho cuộc sống chính ta, mà còn LUÂN CHUYỂN để phụng sự cho cuộc sống nơi người - trong nhân duyên chính nó. Khi ta đã từng gieo nhân cướp tài sản người bằng sự mưu đoạt trong tiền kiếp, thì ta cũng phải thọ nhận quả bị người cướp lại trong kiếp này – đó là nơi QUẢ mà biết NHÂN đã gieo chính xác tuyệt đối trong từng sát na. Hiểu vậy, ta CHẤP NHẬN SỰ MẤT MÁT tài sản, tiền bạc để tâm trí ta chẳng buồn rầu lo nghĩ mà giữ sức khỏe, tâm trí minh mẫn ta mới tạo dựng lại cơ đồ sự nghiệp. Và khi nghĩ thông suốt như vậy, con người mới VƯỢT THOÁT BÁM CHẤP vào tiền bạc, tài sản, mà giữ được thứ TÀI SẢN VÔ GIÁ nhất đời người là SỨC KHỎE và TRÍ TUỆ nơi thân tâm chính mình. Để ta giữ vững định lực mà xoay chuyển càn khôn, giúp cho gia đình mình vượt thoát những khổ nạn khó khăn.
🌼🌼 Để làm rõ hơn vấn đề mà tâm thức người tự tử phải gánh chịu, tôi kể thêm một câu chuyện khác, đó là về một anh ở gần nhà tôi. Cách đây 30 năm, anh ấy vì chuyện tình duyên bị cha mẹ cấm cản, mà sinh ra quẫn trí, tự thiêu, tự hại chính mình.
Đó cũng là thời kỳ đầu tôi mới hành pháp, anh ấy biết tôi có thể giúp nên đã tìm tới. Tụ khí nơi anh đục ngầu có màu nâu của đất, anh di chuyển chầm chậm với dáng vẻ buồn rầu thất thểu rồi chui vào người tôi. Đêm hôm ấy, cả đầu tôi ong ong nặng nề, nhắm mắt mà không sao ngủ được, cứ cảm thấy nơi ngực mình có cái gì đó đau nhói, còn nước mắt thì cứ chực trào ra. Tôi biết đó là nỗi niềm tâm sự nơi anh.
Anh muốn tôi dẫn anh về nhà thăm cha mẹ. Nhưng thời gian ấy tôi không muốn cho ai biết rằng tôi có khả năng kết nối tâm linh, tôi muốn làm việc âm thầm, lặng lẽ, nên không muốn đi gặp cha mẹ anh. Còn anh thì cứ quay cuồng trong nỗi nhớ nhung mà liên tục tác ý. Cuối cùng tôi mới nghĩ ra giải pháp rằng tôi sẽ viết thư lấy tên anh.
Qua lời thư tôi viết, anh bày tỏ nỗi niềm nhớ nhung da diết đến cha mẹ và em gái của mình, anh thiết tha mong cha mẹ tha thứ cho tội bất hiếu mà anh đã gây ra. Anh nói rằng anh muốn được gặp, ôm ấp và chăm sóc cha mẹ nhưng không thể làm được, anh ngàn lần muốn xin lỗi. Anh dặn dò từng người trong gia đình nhớ giữ gìn sức khỏe và nhớ chăm sóc tốt cho bản thân. Còn không quên dặn em mình nhớ quan tâm chăm sóc cha mẹ.
Tôi nhớ là khi viết bức thư ấy tôi đã khóc rất rất nhiều… Đêm hôm ấy tôi không thể ngủ, đợi đến 5h sáng thì chạy sang nhà anh và để lá thư vào sân. Ấy vậy mà cả ngày hôm đó đầu tôi vẫn nhức và nặng như đá đè, trong lòng thì thấp thỏm lo âu. Biết có điều gì đó không ổn, tôi đã gọi điện cầu cứu Cô tôi.
“Con à, con viết thư không thể giải quyết được vấn đề đâu. Ngược lại nó còn tạo phản ứng ngược, là cha mẹ anh ấy sinh tâm nghi ngờ, cho rằng ai chọc phá mình, không thể đồng cảm với tấm lòng nơi anh ấy được. Chỉ có cách duy nhất là con phải đi gặp trực tiếp mà thôi.”
“Nhưng mà con không muốn ai biết là con làm việc tâm linh Cô à. Hơn nữa ba mẹ anh ấy xưa nay nổi tiếng khó tính, và đa nghi, họ sẽ không nghe con đâu, rồi lại còn mất lòng.”
“Con biết không, người tự tử mang nghiệp rất nặng, đó là bất hiếu với Cha Trời Mẹ Đất, với cha mẹ thế gian, còn chưa kể họ chết đi ôm theo một mớ bế tắc không được tháo gỡ… Cho nên tâm thức người tự tử phải rất rất lâu mới đủ duyên để được siêu thoát, có người phải đợi hàng ngàn năm mới được siêu thoát đó nha con. Cho nên đây là anh ấy được ân xá, mới đủ duyên gặp con. Con hãy cho anh ấy được về gặp gia đình.”
Nghe lời Cô, tôi lấy hết dũng cảm ngang sang nhà anh ấy. Cánh cổng nhà anh lúc ấy mở toang, và tôi nhìn thấy mẹ anh ngồi trong nhà nhìn xa xăm ra ngoài cổng. Trong đầu còn nhiều nghĩ ngợi nhưng không hiểu sao thân người tôi chẳng mấy chốc đã chui tọt vào nhà anh.
Tới ngồi nói chuyện, tôi chẳng thể nói được gì, chỉ ngồi ôm mẹ anh mà khóc ngon lành và thú nhận cái thư đó là do tôi gửi. Mẹ anh và tôi đã tâm sự với nhau một lúc, mẹ rất hiền chứ không như những gì tôi tưởng tượng. Bà ấy lúc nào cũng nhớ về anh, thương yêu anh chứ không hề oán trách, giận hờn như anh nghĩ. Lúc gần về thì có ba anh xuống nữa, rồi tôi chào tạm biệt và ra về.
Trên đường về tôi thấy lòng mình sung sướng, cái đầu nhẹ bâng. Tôi chạy xe đi dạo vài vòng và thấy trong lòng thật khoan khoái. Tôi biết đó là cảm xúc nơi anh, và cũng chính là cảm xúc nơi tôi. Anh cũng đã được về nhà thăm cha mẹ lần cuối, trước khi tôi đưa anh quy về Quang Minh Như Lai Phật Tổ.
Thời gian ấy trong lòng tôi có một khúc mắc rất lớn về anh. Đó là tại sao bao nhiêu tâm thức tôi giải thoát, đều chẳng thấy ai mong muốn được về thăm nhà. Nhưng anh lại như phát điên mà liên tục tác ý cho tôi đi gặp cha mẹ để nói lời xin lỗi, và bày tỏ yêu thương như vậy. Chẳng lẽ ngày giỗ hay tết anh không được về hay sao?
Về sau tôi mới nhận được lời giải đáp, đó là do sau khi anh mất, có một vị thầy pháp tới bỏ một lá bùa vào quan tài, để ngăn không cho anh về nhà. Bởi quan niệm cho rằng tâm thức người tự tử có nhiều oán giận, nếu về nhà sẽ quậy phá gia đình. Khi nghe tin ấy, tôi đã hơi bất ngờ, nhưng sau này tôi hiểu ra rằng: việc vị thầy pháp bỏ bùa vào quan tài chỉ là DUYÊN đưa tới, bởi lẽ anh đang trong thời gian thọ khổ, phải chịu cảnh ngục tù tâm thức do chính mình sinh ra vì tội tự tử nên không được phép về thăm gia đình. Chính vì không thể được gặp mẹ cha để thỏa mãn nỗi nhớ nhung, hối lỗi, cứ nghĩ rằng cha mẹ vẫn còn trách giận mình, nên tâm thức anh BỊ TRÓI BUỘC vào cái niệm mong nhớ, hối lỗi ấy mà mắc kẹt 30 năm không thể giải thoát. Đó cũng chính là sự giam cầm nơi tâm thức người tự tử, tự tử vì vấn đề gì thì bị chính vấn đề đó TRÓI BUỘC, nên có những tâm thức bị giam cầm cả ngàn năm là do vậy.
* Qua nỗi lòng của anh và tất cả những tâm thức tự tử mà tôi có nhân duyên tiếp xúc, tôi thấu tỏ cặn kẽ hệ quả mà tâm thức họ phải gánh chịu đằng sau quyết định dại dột ấy. Để rồi từ đó, tôi luôn nhắc nhở chính mình rằng: cần QUÝ TRỌNG THÂN NGƯỜI mình đang có, và QUÝ TRỌNG THỜI GIAN nơi kiếp làm người này để trao gửi yêu thương, tinh tấn tu hành, học tập và làm việc. Không được vì những bế tắc mà hủy hoại thân mình.
* Tôi thấu tỏ rằng tất cả sự đau khổ, bế tắc nơi tâm thức đều xuất phát từ sự si mê bám chấp vào tình yêu, tài sản, danh vọng... - là những thứ do chính ta tạo ra, rồi cũng chính nó làm ta mê mờ ôm chấp hư danh, bởi chẳng chấp nhận được sự đến đi là BẢN CHẤT SINH DIỆT CHÍNH NÓ mà tự hại chính mình. Bởi cái niệm bám chấp quá sâu dày, khiến cuộc đời ta cứ bị dày vò bởi nỗi khổ đau, ai oán. Đến khi chết rồi ta vẫn tiếp tục chịu khổ ải cả trăm năm, ngàn năm nơi cái niệm bế tắc ấy.
* Tôi cũng thấu tỏ rằng: cái chết TỰ TỬ là hành động TRỐN TRÁNH đối thể vây đuổi đòi nợ tình, đòi lấy tài sản, đánh đập, hay đòi giết mình… Nhưng lại chẳng thể trốn tránh được sự đau khổ sinh tạo từ TÂM THAM MUỐN NHƯNG CHẲNG ĐƯỢC NHƯ Ý NƠI MÌNH - và đó chính là cội nguồn gây tạo những khổ ải cùng cực nơi cuộc sống chính ta.
Bởi bị si mê che mờ ý chí, khiến ta không nhận ra cuộc đời này chẳng qua chỉ là VỞ DIỄN, tất cả cũng đều theo nhân duyên chính nó mà sinh diệt - cốt cũng chỉ để thông qua nó ta nhận được bài học gì cho bổn tâm chính mình mà thôi. Cho nên, khi ta sống có trách nhiệm, chấp nhận trả nợ ắt ta sẽ tạo nên quyền lực xoay chuyển mà hóa thành người làm chủ thế cờ, làm chủ con nợ, ta sẽ trả được nợ mà thăng hoa tiến hóa.
Khi ta sống thiếu trách nhiệm, chẳng chấp nhận việc trả nợ, ta sẽ biến ta thành một kẻ hèn nhát, tạo nên sự bế tắc, uất hận, để cho người quyết định số phận cuộc sống nơi ta. Để rồi khi ta chết đi, sẽ chẳng thể siêu sinh thoát hóa, và tâm thức chủ nợ luôn theo ta mà vây hãm, tạo nên sự TRÓI BUỘC MÀ LUÂN HỒI vay trả lẫn nhau. Nói cách khác, tự tử chính là TỰ HẠI CHÍNH MÌNH bị trói buộc trong bóng tối u mê.

31. MỐI QUAN HỆ GIỮA SỐ PHẬN - A LẠI DA THỨC – ĐỐI THỂ - Ý THỨC ĐỐI THỂ
Sau một thời gian giải thoát cho những tâm thức bị mắc kẹt, và xem nhân nghiệp nơi những người gặp khổ nạn, tôi đã thấu tỏ sâu sắc hệ quả do Tâm Ý Thức Đối Thể si mê nơi con người gây ra. Đồng thời, tôi cũng thấu tỏ luôn mối liên hệ khăng khít giữa A Lại Da Thức, Đối Thể, Ý Thức Đối Thể và Số Phận nơi cuộc sống con người.
🌸🌸Tôi hiểu rằng A LẠI DA THỨC là hệ thống “camera sao chụp, lưu giữ và giám sát” nơi bộ nhớ tâm thức bổn nguyên, chịu trách nhiệm sao chụp và lưu trữ toàn bộ chủng nhân thiện ác đã gieo của tất cả chúng sinh trên thế gian này, kể từ kiếp đầu tiên cho tới kiếp hiện tại. Tất cả đều được lưu giữ chính xác trong từng sát na không hề sai lệch. Từ những chủng nhân ấy, bổn nguyên vận hành nhân gieo tạo nơi người nào, thì quả theo nhân trổ mà quay lại tạo nên các MỐI NHÂN DUYÊN QUẢ tương tác trong cuộc sống chúng sinh hiện tại. Gieo nhân sao ắt quả trổ y vậy, ta từng làm chúng sinh hạnh phúc hay khổ đau, thì sau này chúng sinh đó cũng sẽ làm ta hạnh phúc hay khổ đau y vậy nơi cuộc sống chính ta.
🌼🌼 ĐỐI THỂ là tất cả những gì đến với ta trong cuộc sống, được trích xuất từ chủng nhân lưu giữ nơi Thức A Lại Da, như người, con vật, hay sự vật, sự việc… Đối Thể luôn có hình tướng và hiện diện quanh ta, được cơ thể con người tiếp nhận qua các căn (mắt, mũi, miệng, tai, da). Ta gặp lại Đối Thể là để hóa giải hết tất cả các dữ liệu quá khứ đã lưu nơi Thức A Lại Da giữa ta và người. Đối Thể đến với ta theo nhân duyên quả vận hành, nên ta HOÀN TOÀN KHÔNG THỂ TRỐN TRÁNH ĐỐI THỂ ĐƯỢC.
Ví như chuyện người bạn của chồng tôi có đứa con gái bị ung thư máu, đó là bởi anh ấy đã từng gieo nhân cướp tài sản của gia đình tôi, và nhân ấy đã được sao chụp và lưu giữ nơi A Lại Da Thức. Nên sau này, hóa thân tôi trích xuất từ chủng nhân nghiệp anh đã gieo ấy, mà trở thành đứa con gái ung thư máu của anh, khiến anh đau đớn tinh thần, dốc toàn bộ tiền, tâm trí, sức lực để chữa bệnh cho con – là cách anh trả nợ cho tôi, cũng là cách nhân quả vận hành để ĐỐI THỂ VAY TRẢ LUÔN TRIỆT TIÊU NHAU MÀ GIỮ CÂN BẰNG ÂM DƯƠNG - là yếu tố CƠ BẢN sinh tạo muôn pháp.
Gieo nhân gì cho Đối Thể ở quá khứ, thì CHẮC CHẮN sau này chính Đối Thể đó cũng quay lại đòi nợ nơi quy luật vay trả rất công bằng - đó là sự vận hành hoàn toàn tự nhiên và KHÔNG LIÊN QUAN ĐẾN Ý MUỐN CON NGƯỜI.
🍀🍀 TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ là tâm ý chính ta, là tất cả những ý niệm ta NGHĨ VỀ ĐỐI THỂ khi Đối Thể đó theo nhân duyên đến tương tác với ta. Ý Thức Đối Thể bao gồm việc ta khen tặng, tri ân; hay phán xét, trách móc, đổ lỗi; hay sinh tâm tham muốn (vật chất, danh vọng, luyến ái), suy diễn, chấp trước…về Đối Thể. Ý Thức Đối Thể là thứ TA CÓ THỂ ĐIỀU KHIỂN THEO Ý CHÍNH TA.
Ta nghĩ sao thì làm vậy, nên ý nghĩ sẽ chuyển hóa thành hành động, từ hành động huân tập sẽ tạo thành tính cách mà hình thành thói quen tạo nên chủng nhân nghiệp, và được A Lại Da Thức sao chụp, lưu trữ lại. Chính nó QUYẾT ĐỊNH mối nhân duyên khiến ta sẽ gặp lại Đối Thể trong tương lai để hóa giải chủng nhân đó.
Ví như câu chuyện của một anh gần nhà tôi. Anh bị nghiện ma túy nặng, được cha mẹ dẫn đi cai nghiện hết lần này đến lần khác nhưng đều không thể thoát khỏi nó. Anh hơn 35 tuổi, nhưng anh dấn thân vào ma túy đã hơn 15 năm, anh cũng có gần chục năm ngồi tù vì tội trộm cắp. Giờ anh bị HIV, chất ma túy ngấm vào trong hệ thần kinh khiến anh rơi vào ảo giác la hét, tự dùng kim đâm mình, tự đập phá đồ đạc, đốt nhà. Vì bị anh dọa giết nên cả gia đình phải trốn chạy, và anh sống thui thủi một mình, không ai chăm sóc. Khắp người anh bẩn hôi, đầu bù tóc rối, gầy như bộ xương. Anh sống về đêm, chui rúc trong căn nhà tối tăm ngổn ngang đồ đạc, rác rưởi. Giang hồ khắp nơi cứ kéo đến gây sự đánh lộn với anh ầm ĩ cả xóm làng. Anh đi đến đâu là đều trở thành nỗi sợ hãi cho mọi người xung quanh. Anh đã hủy hoại cả cuộc đời mình bằng ma túy.
Mọi người xung quanh ai cũng đều chỉ trích, dè bỉu anh, rằng: tại sao lại có kẻ mê muội, ngu si, hư hỏng đến thế! Đó là bởi người chưa thấu tỏ được rằng: về bản chất, anh đang dùng CHÍNH CUỘC ĐỜI MÌNH để TRẢ NỢ cho Đối Thể. Bổn nguyên đã cho tôi biết, xưa kia anh vì sinh TÂM THAM MUỐN có nhiều tiền bạc mà trồng cả một cánh đồng bao la toàn cần sa. Anh làm việc chuyên nghiệp đến mức xây dựng luôn cả đường hầm ngầm dưới lòng đất để chứa và vận chuyển ma túy. Để cho ma túy đến tay người tiêu thụ, anh dùng lợi nhuận khổng lồ và khoái lạc xác thân để CHIÊU DỤ người vận chuyển và bán ma túy cho anh. Để bảo vệ cho hoạt động sản xuất và mua bán ma túy, anh liên kết những tay giang hồ đàn anh đàn chị, dùng uy lực đàn áp, đánh đập những người không làm theo ý anh...
Đời này, Đối Thể chính là TINH CHẤT MA TÚY trong cây cần sa mà anh trồng để đầu độc người, hủy hoại thân tâm, cuộc sống nơi người - quay lại đòi nợ anh, đầu độc và hủy hoại thân tâm, cuộc sống chính anh. Những người xưa kia anh CHIÊU DỤ bằng cách gợi lên TÂM THAM MUỐN để họ cùng làm việc cho anh – đời này cũng chính họ quay lại, hết lần này đến lần khác, liên tục lôi kéo anh vào con đường nghiện ngập. Xưa kia, anh kết bè phái dùng quyền lực hành hung người, làm cho người mất tiền bạc, mất sức khỏe, người thân xa lánh. Thì nay, anh bị tước đoạt hết sức khỏe, tiền tài, người thân y vậy, khiến anh không còn khả năng tự vệ, tạo điều kiện cho Đối Thể là những người khi xưa bị anh ức hiếp quay lại gây lộn, đánh đập anh. Ngay cả căn bệnh HIV cũng là những Ý Thức Đối Thể từ tâm tham muốn khi xưa anh sinh tạo từ việc trồng cần sa, quay lại tàn phá dần mòn thân tâm anh. Xưa kia anh làm hầm tối vận chuyển để trốn tránh sự truy bắt của cảnh sát, thì nay anh cũng sống chui nhủi trong bóng tối y vậy, nhưng không thể thoát khỏi sự vây bắt của bệnh tật, ảo giác đang hành hạ thân mình.
Cha anh hay oán trách anh bất hiếu, người đời cũng chỉ trích anh bất hiếu, dùng dao đuổi giết, đánh đập, chửi bới cha mình. Nhưng cha anh và mọi người không hề biết bản chất nhân nghiệp mà bổn nguyên đã cho tôi thấy. Đó là trong TIỀN KIẾP khi còn là giang hồ có tiền, có quyền trong tay, anh thường xuyên đánh đập, lăng mạ, ức hiếp ông ấy. Để rồi đến ĐỜI NÀY, Đối Thể bị anh ức hiếp xưa kia trở thành cha anh, khiến người cha đã luôn không ngừng đánh đập, chửi bới, la hét, trì chiết, xúc phạm con mình, từ khi anh còn rất nhỏ. Ông nuôi con hoàn toàn bằng đòn roi, khiến anh ngay từ nhỏ đã sống trong bạo lực, thiếu vắng TÌNH YÊU THƯƠNG nơi gia đình thực thụ, mà sinh lòng oán hận, theo thời gian dần trở nên cứng đầu cứng cổ, chống đối ông. Người con càng ngày càng lớn lên, thì người cha ngày càng già yếu. Sau vài lần bị ông chửi bới, tống cổ vào trại cai nghiện, đứa con tức nước vỡ bờ, chờ đến ngày ra trại mà quay lại đánh đập, dùng dao rượt đuổi tìm giết cha mình, khiến ông phải bỏ nhà trốn chạy. Hai tâm thức cứ vậy mà nhớ nhau đời đời kiếp kiếp, để rồi cứ xoay vòng tìm gặp nhau mà LUÂN HỒI ĐẬP QUA ĐẬP LẠI không có hồi kết, sinh ra những bi kịch đau lòng…
Như vậy, qua câu chuyện cha con người nghiện ma túy, câu chuyện anh bạn có đứa con bị ung thư máu, hay qua tất cả những câu chuyện nhân quả mà tôi đã từng kể… có thể thấy rõ ràng rằng: ta HOÀN TOÀN KHÔNG THỂ CAN THIỆP vào việc Đối Thể đến đòi nợ mình, bởi chân lý nhân quả nhất như vận hành thấy biết nhân sinh theo nhân trổ quả là BẤT DI BẤT DỊCH, CHÍNH XÁC TUYỆT ĐỐI TRONG TỪNG SÁT NA. Chính TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ SI MÊ dẫn dắt khiến ta gieo nhân hại người, làm người đau khổ trong QUÁ KHỨ - sẽ quay lại gây ra cảnh khổ nạn nơi cuộc sống chính ta HIỆN TẠI. Nói cách khác, đó là TỰ TA LÀM HẠI MÌNH.
Như vậy, ta thấu tỏ rằng: Ta CÓ QUYỀN QUYẾT ĐỊNH việc đối thể đến với ta trong TƯƠNG LAI, bằng việc NHẬN DIỆN, KIỂM SOÁT và ĐIỀU KHIỂN tâm ý thức đối thể chính mình ở HIỆN TẠI. Ví như ta gieo một cái nhân tốt, thì tương lai trổ quả tốt là điều tất nhiên và ngược lại.
Ta HOÀN TOÀN CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ Ý THỨC ĐỐI THỂ DO TA SINH TẠO và cũng chính nó quyết định chủng nhân nghiệp ta đã gieo. Tất yếu, SỐ PHẬN TA LÀ DO Ý CHÍNH TA, CŨNG CHÍNH LÀ THIÊN Ý QUYẾT ĐỊNH.
* THỰC HÀNH NHẬN DIỆN Ý THỨC ĐỐI THỂ SI MÊ NƠI TÂM THỨC CHÍNH MÌNH
Tôi lấy một ví dụ trong cuộc sống gia đình tôi. Chồng tôi là người rộng rãi, phóng khoáng, tốt bụng nhưng nóng tính. Vào một buổi sáng nọ, anh phát hiện mình bị mất một chiếc nhẫn, mà lần cuối anh đeo là cách đó nửa tháng. Nhà tôi có một cô giúp việc nhà và một chị bảo mẫu thường ra vào phòng.
Khi ấy chồng tôi bực mình lắm, mặt mày cau có, đổ lỗi cho cô giúp việc nhà (vì cô ấy đã từng có lần bị nghi ngờ lấy trộm tiền và đã bị cảnh cáo), và anh nói với tôi rằng anh quyết định cho cô ấy nghỉ việc. (1)
Tôi nói rằng tâm thức anh đang đổ lỗi cho người khi không có bằng chứng, lần trước cô ấy lấy nhưng chắc gì lần này đã là cô ấy lấy đâu. Vậy nên anh nói cô ấy lấy khi không có bằng chính là đang gieo nhân mê mờ đổ lỗi cho người, lẽ ra anh nên nhìn lại mình, vì đó là lỗi do mình để đồ giá trị lung tung mà không cất tủ cẩn thận.
Chồng tôi vốn đang bực mình, nghe tôi nói vậy như đổ thêm dầu vào lửa. Anh đã nổi đóa lên, nói rằng tôi bị lậm vào tâm linh quá rồi nên toàn nói việc vô lý, rồi vùng vằng bỏ đi. (2)
Đến trưa, chồng tôi có vẻ dịu lại thì hai vợ chồng nói chuyện với nhau. Chồng tôi bắt đầu thanh minh rằng: hồi sáng anh quyết định cho cô ấy nghỉ việc là bởi bé sau nhà tôi đã đủ tuổi đi mẫu giáo, khi đó chị bảo mẫu có thể làm việc nhà nên dư người, cho nên anh mới nói cho cô giúp việc nghỉ. Chứ chẳng phải là anh cho nghỉ vì cô ấy lấy trộm đồ. (3)
Sau khi quan sát diễn biến tâm lý chồng mình từ sáng tới trưa, tôi mới ngộ ra rất rõ ràng bản chất Tâm Ý Thức Đối Thể nơi con người. Đó là khi sự việc xảy ra, ở phần (1), tâm thức ta thường phóng ý niệm về phía Đối Thể TRƯỚC TIÊN. Bởi ý nghĩ cho rằng Đối Thể làm thiệt hại đến lợi ích của mình, đó là lỗi của Đối Thể - đây là phản ứng HẾT SỨC BÌNH THƯỜNG nơi tâm thức con người. Phần lớn ai cũng đều sẽ hành xử như vậy, khi mà lý trí ta đang bị cảm xúc điều khiển và chi phối.
Tiếp tục, tâm thức ta bắt đầu phát huy TÀI SUY DIỄN, từ việc quá khứ sẽ suy diễn ngay đến tương lai nếu gặp tình huống tương tự. Cô giúp việc đã từng bị nghi ngờ lấy trộm tiền, thì khi gặp tình huống mất đồ tương tự, ta liền suy diễn và kết luận cô ấy lấy trộm cái nhẫn, mặc dù không hề có bằng chứng. Từ đó có thể thấy bộ não ta thường BỊ RẬP KHUÔN, đi theo lối mòn, khiến TA KHÔNG THỂ KHAI PHÓNG mà tư duy thoát khỏi cái hộp khuôn mẫu. Khiến ta dễ có những định kiến sai lầm về người, nếu ta không nhận diện ra và cứ liên tục để nó dẫn dắt, sự tư duy ấy sẽ huân tập thành thói quen tạo thành chủng nhân nghiệp.
Ở phần (2), khi nghe tôi nói đụng chạm đến cái lý của mình, anh lập tức nổi đóa lên để bảo vệ cái tôi cá nhân chính mình, tiếp tục sinh tâm phán xét rằng tôi bị lậm vào tâm linh nên nói chuyện vô lý – trong khi không nhận ra sự thật là anh đang vô lý với chính mình và người khác. Tất nhiên, đó cũng là phản ứng RẤT BÌNH THƯỜNG của một người đang bị cảm xúc bực tức chi phối.
Ở phần (3), anh có một khoảng thời gian để tĩnh tâm, bắt đầu thoát dần khỏi cảm xúc, và lý trí bắt đầu chiếm ưu thế để sáng suốt suy xét. Anh dần nhận ra là hồi sáng mình có phản ứng hơi quá. Nhưng bản ngã, cái tôi cá nhân vẫn CỨNG ĐẦU KHÔNG CHỊU NHẬN LỖI là do mình để đồ không cẩn thận, thì lại tìm một lý do để THANH MINH, rằng vì sắp tới nhà dư người nên mới cho cô ấy nghỉ. Để cho tôi thấy rằng anh không nhỏ nhen, không gieo nhân mê mờ như tôi nói. Đó cũng là một phản ứng HẾT SỨC BÌNH THƯỜNG của con người khi họ vẫn chưa thoát khỏi bản ngã, cái tôi cá nhân.
Từ đó tôi mới thấy được rằng, TÂM THỨC TA LUÔN LÀ CON LỪA VĨ ĐẠI CỦA CHÍNH TA. Nó luôn sinh tạo ra những lý lẽ thuyết – phục – nhất – có – thể để BẢO VỆ BẢN NGÃ CHÍNH MÌNH, để người ngoài luôn thấy mình tốt, mình đẹp, mình cao thượng. Chính vì vậy mà ta luôn không đủ tỉnh táo, không đủ dũng cảm để CHẤP NHẬN LỖI LẦM mà sửa đổi.
Lòng tham ai cũng có, ngay cả một người thật thà, khi thấy tiền bạc và đồ đạc giá trị để lung tung, mà họ đang túng quẫn thì cũng sẽ dễ sinh tạo hành động sai lầm mà trộm cắp tài sản. Đó là lỗi của anh, DO ANH MÀ HỌ CÓ ĐIỀU KIỆN TẠO NGHIỆP. Họ đang LẤY NGHIỆP GIÙM ANH mà anh không biết, anh lại tiếp tục gieo thêm nhân mê mờ đổ lỗi cho người, khi chẳng biết ai lấy. Chẳng phải rằng họ đang HY SINH PHƯỚC ĐỨC để cho anh có được bài học về bổn tâm chính mình hay sao? Vì vậy, đừng bao giờ để sự hy sinh của họ là vô ích, khi mình không nhận ra GIÁ TRỊ BÀI HỌC gì từ nó.
Khi chồng tôi nghe tôi phân tích như vậy, anh đã cười hè hè và nói rằng: “Sao vợ nói đúng tâm lý chồng dữ vậy”. Sau đó mặc dù anh vẫn còn bực mình vì bị mất nhẫn, và nói bóng gió cho hai người làm biết việc mình mất đồ. Nhưng rồi anh cũng không còn bận tâm nhiều về nó và tuyệt nhiên tôi không còn thấy anh đổ lỗi cho ai hết. Từ đó chúng tôi cũng chú ý cất đồ cẩn thận hơn để họ không có điều kiện sinh tạo lòng tham mà tạo nghiệp nữa.
* THỰC HÀNH CHẤP NHẬN BẢN CHẤT TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ SI MÊ CHÍNH MÌNH
Tôi lấy một ví dụ khác. Vốn dĩ xưa giờ tôi luôn là người nói lý lẽ, mọi người hay nói tôi nên làm luật sư, vì có tài nói cái gì cũng thành đúng mặc dù sai rõ ràng. Xưa kia tôi vẫn luôn tự hào về tài ăn nói lươn lẹo của mình, và cho rằng đó là thông minh. Nhưng sau này tu rồi, tôi mới nhận ra đó là một TẬT XẤU, và trước nay tôi chuyên dùng nó để BẢO VỆ BẢN NGÃ SI MÊ chính mình mà thôi. Tôi quyết định sửa nó, nhưng tất nhiên là hành trình không hề đơn giản chút nào.
Có lần tôi bị chồng la vì chị nhân viên của tiệm làm việc phạm lỗi, mà tôi là người trực tiếp chỉ dẫn cho chị. Chồng tôi nóng tính nên hay la tôi với giọng gay gắt, và trách tôi làm việc sơ suất, lơ là. Khi ấy sân si trong tôi BẮT ĐẦU NỔI LÊN, tôi định cất tiếng THANH MINH bảo vệ mình.
Nhưng rồi tôi đã NHẬN DIỆN RA cảm xúc, sự sân si và ý muốn thanh minh ấy. Chúng giống hệt những con ngựa hoang đang chờ mở cửa chuồng để phóng ra ĐÁ chồng tôi mấy phát. Tôi đã rất tiến bộ hơn xưa, khi hoàn toàn nhận diện ra được tất cả cảm xúc và ý nghĩ nơi chính mình.
Tôi cố gắng giữ cánh cửa và không cho những con ngựa ấy phóng ra, bằng việc CHẤP NHẬN rằng: TÔI ĐANG NỔI SÂN SI, và tất cả cái lý đang để bảo vệ bản ngã chính tôi, và điều chồng đang nói là HOÀN TOÀN ĐÚNG. Sau khi nhận diện được như vậy, tôi cũng CHẤP NHẬN luôn là bản ngã nơi tôi đang không cho phép tôi nhận sai vào ngay tại thời điểm đó. Vì vậy, để thỏa mãn tất cả, tôi chọn cách IM LẶNG, không cãi không nói gì hết. Cứ để cho chồng tôi nói cho đã rồi xong.
Sau khi chồng tôi bỏ đi, bản ngã nơi tôi đã được kìm xuống, tôi đã có đủ bình tĩnh để suy xét việc mình làm bị sai sót chỗ nào mà chỉ lại cho chị nhân viên. Đồng thời trong quá trình làm tôi thấy đúng là mình đã lơ là thật, chồng tôi nói thật sự chẳng sai chút nào. Thể là cái Ý Thức Đối Thể như những con ngựa hoang ấy lập tức được GIẢI THOÁT. Tôi thấy nhắm mắt lại mà đầu mình bốc khói nghi ngút. Đến tối tôi đã nhận sai với chồng – đó là tôi DŨNG MÃNH PHÁ BỎ bức màn si mê vốn dĩ bảo vệ bản ngã chính tôi, thế là hai vợ chồng vui vẻ trở lại. Anh còn khen thêm một câu, rằng: “Công nhận vợ bữa nay tu có khác, không còn cãi leo lẻo nữa.”
Từ trải nghiệm nơi chính mình, tôi thấu tỏ rằng: Để giải quyết vấn đề trong cuộc sống, ta cần THẤU TỎ BẢN CHẤT CON NGƯỜI chính mình, cần CHẤP NHẬN SỰ THẬT VỀ BẢN NGÃ SI MÊ chính mình. Bản chất thấy biết con người luôn là vọng tưởng, đề cao cái tôi cá nhân; bản chất tính cách con người là tham, sân, si, hỷ, nộ, ái, ố. Nhưng ta thường không bao giờ chấp nhận bản chất ấy nơi con người chính mình, không bao giờ chấp nhận người khác nói mình xấu, mà luôn luôn dùng những niệm tốt đẹp để gắn cho mình, tạo ra lớp mặt nạ hoàn hảo. Để rồi ta luôn ép bản thân mình phải sống theo cái mặt nạ đó. Vô tình khiến bản mặt xấu xí nơi thâm tâm ta không ngừng tăng trưởng trong âm thầm, nhưng luôn bị đè nén, gây ra cảnh bế tắc, khổ đau, tạo ra cái cảm giác luẩn quẩn không sống thật với chính mình.
Việc nhận diện nó hoàn toàn không dễ chút nào, và cần có quá trình luyện tập - nhưng chỉ cần có sự quyết tâm, có ý chí là ta đều có thể làm được. Khi ta chấp nhận sự thật rằng: mặt xấu (ác) LUÔN SONG HÀNH cũng mặt tốt (thiện) nơi tâm thức ta, thì lúc đó ta mới thật sự thấu tỏ sâu sắc tâm thức chính mình. Khi đó cảm xúc ta mới trở nên KHÁCH QUAN, không bị đối thể chi phối điều khiển. Hay nói cách khác, TA LÀM CHỦ CẢM XÚC, LÀM CHỦ SUY NGHĨ CHÍNH TA.
* THỰC HÀNH SỐNG THẬT VỚI CẢM XÚC CHÍNH MÌNH
Nhiều người từng nói với tôi rằng họ biết là phải BUÔNG BỎ cái tâm đố kỵ, so sánh hơn thua, vứt bỏ cái tâm tham muốn danh lợi…nhưng không thể làm được. Cũng có không ít người nói rằng họ biết rằng mình phải YÊU THƯƠNG người một cách bình đẳng, nhưng sự thật là: luôn có những người không thể làm mình yêu thương được. Rồi họ cảm thấy THẤT VỌNG sau khi “núi lửa” phun trào, thấy thất vọng vì mình đã cố gắng yêu thương, cố gắng từ bi, hỷ xả... nhưng SAO KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC?? Hay có rất rất nhiều người thích đi chùa vì ở nơi đó thật THANH TỊNH, cảm thấy trong lòng thanh thản, bình an. Nhưng ngay lập tức khi trở về với cuộc sống thì sự SÂN SI lại thường nổi lên.
Tất cả vấn đề trên đều có chung một nguyên nhân: là vì ta đang ÉP BẢN THÂN vào khuôn khổ, ép ta phải sống thiện, phải biết yêu thương, phải từ bi, hỷ xả, phải tri ân tất cả mọi người kể cả những người làm khổ mình - chứ ta CHƯA THẬT HIỂU VÀ SỐNG CÙNG VỚI NÓ. Việc ép buộc bản thân như vậy chỉ là LẬP NIỆM – lập ra cái niệm để nghĩ mình là người như vậy, lấy cái niệm tốt đẹp để CHE ĐẬY bản ngã chính mình: lấy niệm “yêu thương” ĐÈ lên niệm “ghét”, lấy “buông bỏ hỷ xả” BAO BỌC lên cái tôi “ích kỷ”, lấy “thanh tịnh” ĐÁNH LỪA niệm “sân si” mà thôi.
Để dẫn chứng, tôi kể một câu chuyện khác, đó là về mẹ và bà nội tôi. Bà nội tôi cực kỳ khó tính, bà hay đòi hỏi con cái phải chăm sóc theo đúng yêu cầu của bà và hiếm khi cảm thấy thỏa mãn. Chính điều đó khiến các người con luôn cảm thấy mệt mỏi khi đến phiên chăm sóc bà.
Mọi người trong nhà luôn ca ngợi mẹ tôi là người giỏi chịu đựng, giỏi nhẫn nhịn, bởi bất cứ chuyện gì xảy ra mẹ cũng đều là người hòa nhã và thường có những hành động làm hài lòng mọi người. Một lần nọ, mẹ tôi bị gãy chân phải bó bột, lúc chân cũng gần lành thì đến lượt mẹ tôi chăm bà. Khi ấy bà đã “hành” mẹ tôi, bắt mẹ tôi dìu đi tắm trong khi không có ai ở nhà phụ mẹ cả. Mẹ tôi không dìu đi được thì bà giận lẫy, và đi vệ sinh ướt hết cả giường.
Khi ấy núi lửa trong lòng mẹ tôi bắt đầu phun trào, mẹ tức lắm nhưng chỉ dám đi ra phòng ngoài để la hét (bà tôi bị lãng tai nặng), sau đó mẹ gọi điện thoại cho tôi vừa trách móc bà vừa khóc. Rồi bao nhiêu chuyện xưa giờ bà hành mẹ, mẹ tôi đều kể hết. Kể hết tất cả để chứng minh cho tôi thấy rằng bà quá đáng, MẸ THƯƠNG BÀ MÀ SAO BÀ KHÔNG THƯƠNG MẸ. Mẹ bị đau chân mà tại sao bà không thương mẹ, bắt mẹ phải dắt đi tắm trong khi nhà chẳng có ai. Tôi cứ để cho mẹ nói hết ra như vậy…
Sau đó, tôi nói với mẹ rằng những gì mẹ nói ra, chỉ để CHỨNG MINH cho mẹ thấy rằng sự nhẫn nhịn xưa nay chỉ là GIẢ TẠO, là LẬP NIỆM. Mẹ có thể đánh lừa người khác, nhưng làm sao có thể đánh lừa CHÍNH TÂM THỨC MÌNH. Mẹ lấy niệm “nhẫn nhịn”, “hỷ xả” để che đậy cái tâm chấp nhặt, để bụng của mẹ. Người ta làm việc bất như ý, ngoài mặt thì mẹ tỏ ra bình thường, cho qua, nhưng cái Ý Thức Đối Thể nghĩ về người VỐN DĨ ĐÃ SINH RA và NÚP trong thân tâm mẹ, hết ý này đến ý khác, XẾP CHỒNG CHẤT lên nhau và được cái niệm “nhẫn nhịn”, “hỷ xả” ĐẬY LÊN trên cùng. Để rồi mẹ cứ ủ những nỗi bực dọc trong lòng để SUY DIỄN TIÊU CỰC mà sinh ra bứt rứt, bệnh tật; và sinh ra một mớ ĐỊNH KIẾN che mờ bổn tâm, khiến mẹ CHẲNG THỂ NHẬN RA là mẹ rất thương yêu bà.
Và đây cũng chính là vấn đề mà HẦU HẾT CHÚNG TA ĐỀU TRẢI QUA chứ không chỉ riêng mẹ tôi. Đó là diễn biến tâm lý “tức nước vỡ bờ” HẾT SỨC BÌNH THƯỜNG khi cảm xúc con người dồn nén quá lâu. Ta có thể ép bản thân nhẫn nhịn, giả vờ hỷ xả, trong thời gian ngắn, nhưng liệu có thể giả vờ cả cuộc đời? Tôi đã nói mẹ hãy SỐNG THẬT với cảm xúc chính mình, đừng lập niệm rằng mình phải nhẫn nhịn, mình phải hỷ xả. Có vấn đề gì thì CỨ NÓI RA để cùng thấu hiểu nhau hơn.
Điều quan trọng là ta cần có QUYẾT TÂM RÈN LUYỆN tâm ý chính mình. Hôm nay ta bực ta nói thẳng, nhưng nói xong rồi thì ta cần dành thời gian TĨNH TÂM ĐỂ NGẪM NGHĨ xem VÌ SAO mình lại bực mình, GỐC RỄ VẤN ĐỀ nằm ở đâu trong tâm thức mình… để rút kinh nghiệm. Lần sau ta tức ta không nói nữa, mà cố gắng GIỮ IM LẶNG ĐỂ SUY XÉT. Rồi lần sau nữa, ở trình độ cao hơn, thì ta phân tích ngay tại thời điểm vấn đề xảy ra và GIẢI THOÁT Ý THỨC ĐỐI THỂ ngay tại thời điểm đó luôn. Nghĩa là một khi đó có sự RÈN LUYỆN thì ắt ta sẽ dần THÀNH THẠO mà nhận diện, kiểm soát và giải thoát tâm ý thức đối thể chính ta.
Trong trường hợp mẹ tôi, cái làm cho mẹ bực, mẹ bức xúc chính là bởi cái TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ SO SÁNH THIỆT HƠN, cho rằng mẹ thương bà hết lòng hết sức, mà tại sao bà không thương lại mẹ. Đó là tình thương yêu có điều kiện – là Ý Thức Đối Thể khiến tâm ta trở nên hẹp hòi, bản chất tình yêu thương ấy chỉ là ích kỷ, yêu thương chính mình mà thôi. Chỉ có TÌNH YÊU THƯƠNG TỎ THẤU TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ CHÍNH MÌNH SINH TẠO mới thật sự giúp ta có sự đồng cảm với người, từ đó mới tỏ thấu gốc rễ tâm thức dẫn đến hành động nơi người, đó mới THẬT SỰ là yêu thương.
Cũng bởi khi chuyện xảy ra, cơ thể ta tốn quá nhiều năng lượng cho việc suy nghĩ tiêu cực mà gây ra cảm giác mệt mỏi, chán nản, đầu óc lùng bùng. Tay chân làm vốn dĩ không mệt, chỉ có vì cái đầu suy nghĩ lung tung mới làm ta mất hết sức lực mà thôi. Ví như khi mới bắt đầu công việc mà ta đã tưởng tượng ra chặng đường gian nan trước mắt, liền thấy nhụt chí, chán nản, phiền não. Vậy nên khi có việc, ta cứ làm hết lòng hết sức, thấy việc là làm, làm toàn tâm toàn ý, đầu không nghĩ, không so sánh thiệt hơn, không so đo tính toán, không nghĩ quá xa… Việc gì làm được thì làm, việc gì không làm được thì nhờ người phụ giúp. Ta cứ định tâm vào công việc, thì lập tức sẽ có năng lượng mà vượt qua tất cả khó khăn, để tâm thức ta luôn an nhiên, tự tại.
Tôi hay nói với mẹ rằng, bà nội đang làm ác để THÀNH TỰU CÁI THIỆN cho mẹ, bà đang quá đáng để THÀNH TỰU CÁI TỪ BI, HỶ XẢ cho mẹ. Nên bà chính là NGƯỜI THẦY của mẹ, cũng là BỒ TÁT của chính mẹ. Tất nhiên khi tôi nói điều này, mẹ tôi luôn giãy nảy phản đối. Tôi cũng hiểu lý do, bởi tôi biết mẹ luôn có thành kiến với bà, và mẹ vẫn đang còn bị bản ngã dẫn dắt nên mới không thấu được điều tôi nói. Nhưng tôi biết răng, một ngày nào đó khi mẹ tôi đã sống được với bổn tâm chân thật chính mình, mẹ sẽ xem bà là THẦY của mình.
* THỰC HÀNH RÚT RA BÀI HỌC VÀ TRI ÂN ĐỐI THỂ
Khi khổ nạn tới, ta hay đổ thừa tại NGHIỆP, hay nghĩ rằng ta đã có CƠ HỘI ĐỂ TRẢ NGHIỆP và hoan hỷ về điều đó. Đó mới là hiểu biết phần ngọn. Quan trọng là ta phải biết nghiệp ấy đến dạy cho ta BÀI HỌC GÌ về cuộc sống, BÀI HỌC GÌ về Tâm Ý Thức Đối Thể chính ta. Đó mới THỰC SỰ LÀ Ý NGHĨA CỦA NGHIỆP. Còn bản chất những gì ta hao tốn để giải quyết nghiệp (tiền bạc, sức khỏe, tâm trí, thời gian…), đều chỉ là phương tiện trao đổi để ta học cái biết chân thật mà thôi. Khi ta hiểu được giá trị đích thực, thì nghiệp không còn có tốt xấu, bởi tất cả đến để giúp ta quay về mà tư duy phản tỉnh, nhận diện các vấn nạn nơi ta mà giải thoát nó. Khi ta nhận ra bài học từ nghiệp để thay đổi cách thấy biết chính mình, cũng chính là ta đã KẾT THÚC BÀI HỌC mà GIẢI THOÁT NHÂN NGHIỆP và CHẤM DỨT LUÂN HỒI chỉ để học lại bài học ấy.
Con người rất dễ nhìn thấy khuyết điểm nơi Đối Thể, nhưng lại rất khó nhận ra khuyết điểm chính mình. Khi ta cho rằng mình là người nhẫn nhịn, mình từ bi, mình hỷ xả… để rồi khi việc bất như ý đến, ta luôn tỏ ra cao thượng bỏ qua hết mọi lỗi lầm của Đối Thể, không thèm chấp Đối Thể. Nhưng ta đâu biết rằng bản ngã si mê nơi chính ta vì vậy mà KHÔNG NGỪNG TĂNG TRƯỞNG. Bởi ta cho rằng ta tốt đẹp và cao thượng, nên ắt thấy đối thể là người thấp kém hơn mình, khiến ta CHẲNG THỂ HẠ THẤP BẢN THÂN để nhận ra họ đang dạy mình điều gì.
Ví như khi vợ chồng bất đồng quan điểm, có thể tranh luận dẫn đến cãi vã. Cãi có thể cãi, chửi có thể chửi, nhưng nhất định phải SUY NGẪM xem sau cùng thì trận cãi vã đó cho ta bài học gì, đối phương dạy cho ta điều gì, ta cần sửa cái gì để đi đến hòa hợp mà hoàn thiện lẫn nhau… Khi ta nhận diện ra được bài học từ việc cãi nhau, tất yếu sau này ta sẽ TỰ BIẾT ĐIỀU CHỈNH DẦN DẦN, để rồi hai vợ chồng thấu hiểu tính cách nhau, đồng cảm nhau mà sống đời hạnh phúc.
Ta không thể thay đổi được người khác làm theo ý mình, TA CHỈ CÓ THỂ THAY ĐỔI TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ CHÍNH TA. Trong cuộc sống này, chính Đối Thể là người đang RÈN LUYỆN SỰ KIÊN ĐỊNH cho chính ta, chính Đối Thể GIÚP TA NHẬN DIỆN ra bổn tâm chân thật chính ta. Vì vậy, ta cần CHẤP NHẬN TÍNH CÁCH XẤU XÍ – vốn là bản chất chân thật nơi chính mình, QUYẾT TÂM THAY ĐỔI SUY NGHĨ BẢN THÂN, và luôn SẴN SÀNG THỰC HÀNH TƯ DUY PHẢN TỈNH thời thời khắc khắc trong cuộc sống để nhận ra ĐỐI THỂ ĐANG DẠY CHO TA BÀI HỌC GÌ. Khi ta hiểu rằng nghịch cảnh chính là dưỡng chất để ta phát triển mà hoàn thiện bản thân, thì tất cả chúng sinh trên đời này, dù là thiện hay ác, dù là tốt hay xấu, dù là vĩ đại hay nhỏ bé… cũng đều là THẦY cũng chính ta, và ta sẽ chỉ còn sống bằng sự TRI ÂN, và TÌNH THƯƠNG YÊU chân thật mà thôi.

31 nhận xét:

  1. 32. TÂM THỨC BỔN NGUYÊN - LINH THỨC - CÁC CẢNH GIỚI CỦA LINH THỨC
    Ngày còn bé, tôi thường có những thắc mắc về hai chữ mà dân gian vẫn thường gọi là HỒN VÍA. Vì sao lại gọi là Hồn và vì sao lại gọi là Vía? Chúng có ảnh hưởng gì đến cuộc sống hiện tại và sau khi chết đi? Và sự tái sinh của con người được diễn ra như thế nào? Sau này, khi thường tư duy phản tỉnh truy ngược, để tỏ thấu điều tôi không biết, cùng với sự thật chứng cái biết mà bổn nguyên cho tôi trải nghiệm khi thiền, bức rèm si mê ngăn che ngày càng được xóa dần, tôi mới hoàn toàn thấu tỏ được bản chất thật sự của Hồn và Vía - tất cả đều là tâm thức hiển bày hệ tư tưởng, ý nghĩ tạo nên lời nói, hành động hình thành cuộc sống chính ta.
    🌼🌼 “THẤY BIẾT BẢN CHẤT CHÂN THẬT BỔN NGUYÊN” LÀ GÌ?
    "Thấy biết bản chất chân thật bổn nguyên" là TÂM THỨC BỔN NGUYÊN (trong các bài viết tôi thường gọi tắt là “thấy biết”), chỉ sự “thấy sao biết vậy” nơi tâm thức con người, thông qua các giác quan mắt, mũi, tai, lưỡi, da. Tất cả cái “biết” ấy đều do bổn nguyên dạy tâm thức ta từ khi còn nhỏ, và vốn dĩ cái biết đã có sẵn, không phải qua trải nghiệm, học tập mới biết. Ví như: nhìn một vật liền biết đẹp xấu, màu sắc, hình dáng… nghe âm thanh liền biết hay dở, to nhỏ... nếm vị liền biết ngọt, đắng, chua, cay... ngửi mùi liền biết thúi, thơm… xúc chạm liền biết nóng, lạnh, ướt, khô…
    “Cái biết bản chất chân thật bổn nguyên” (là vô tướng) vốn dĩ đã có sẵn từ trước, nhưng con người phải thông qua sự tương tác giác quan với đối thể (có sắc tướng), não ta mới sinh ra các Ý NIỆM về đối thể, thì mới trải nghiệm và tư duy phản tỉnh, để THẬT BIẾT về cái biết bổn nguyên đó. Cho nên, những cái biết có được từ sự trải nghiệm, học tập đều chỉ để CHỨNG MINH cho “cái biết bản chất chân thật bổn nguyên” SẴN CÓ mà thôi.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ví như, cái biết bổn nguyên là: nước thì ướt. Nhưng con người phải sờ vô đối thể là NƯỚC, thì mới trải nghiệm để não sinh ra ý niệm “ƯỚT” mà thật chứng cái biết bổn nguyên có sẵn và bất biến “nước thì ướt” đó. Hay cái biết bổn nguyên có sẵn là: ớt cay. Nhưng ta phải có QUẢ ỚT là đối thể, thì mới trải nghiệm nếm thử mà sinh ra ý niệm “CAY” để thật chứng. Ví như ta nhìn thấy đối thể liền biết to nhỏ ra sao, chính là ý niệm “to, nhỏ” được sinh ra mà ta mới thật biết.
      Cho nên, “cái biết bản chất bổn nguyên” tuy có sẵn nhưng phải có sự TƯƠNG TÁC VỚI ĐỐI THỂ thông qua các giác quan, thì ta mới tư duy, mà NHẬN RA cái biết ấy nơi bổn tâm chính ta. Vì vậy mà cuộc sống con người có thân xác để tương tác với đối thể có sắc tướng là VÔ CÙNG ĐÁNG QUÝ, bởi chỉ có sự tương tác với đối thể thì ta mới trải nghiệm mà THẬT BIẾT về “cái biết bản chất bổn nguyên” để PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ.
      * Cần lưu ý là: các đối thể đều có SẮC TƯỚNG nên ắt có SINH DIỆT. Chỉ duy nhất “cái biết bản chất chân thật bổn nguyên” (vô tướng) mới là TỒN TẠI BẤT BIẾN mà thôi. Ví như quả ớt thì để một thời gian sẽ bị hư thúi. Đồ vật gì cũng sẽ hao mòn không thể sử dụng được. Hay đến ngay cả thân người mình cũng có lúc phải tan hoại thành cát bụi. Ví như sự việc: người là đối thể tới làm điều xấu xa với ta, hành động xấu xa ấy rồi cũng phải đến lúc kết thúc, nhưng cái quan trọng là: ta đã TƯ DUY và NHẬN RA BÀI HỌC GÌ nơi bổn tâm chính ta, mà TỎ THẤU GIÁ TRỊ bài học bổn nguyên dạy cho mình thông qua việc đưa đối thể tới làm điều xấu với ta – chính GIÁ TRỊ ấy mới là CÁI BIẾT VĨNH HẰNG.
      Nghĩa là bổn nguyên vận hành các đối thể đến tương tác với ta theo nhân duyên, chỉ là PHƯƠNG TIỆN CÓ SINH DIỆT đến cho ta trải nghiệm, quay về bổn tâm- cốt cũng chỉ để ta nhận ra cái biết bổn nguyên. Thế nhưng, con người lại thường sinh tạo những Ý Niệm Đối Thể si mê BÁM CHẤP, BẤU VÍU, OÁN TRÁCH, PHÁN XÉT… vào những phương tiện có sinh diệt ấy; khiến ta bị mê mờ, bị cuốn trôi, bị lệch hướng, không thể tư duy mà quay về bổn tâm - đó chính là CỘI NGUỒN tạo nên sự khổ đau, bế tắc nơi tâm thức con người. Và cũng chính Ý Niệm Đối Thể si mê ấy là nhân tố dẫn dắt con người TRẦM LUÂN SINH TỬ, học đi học lại một bài học không xong nên cứ LUÂN HỒI gặp lại hoài, gây lãng phí thời gian mỗi kiếp người.
      Cho nên, cái gốc rễ tạo nên sự trói buộc sinh tử chính là Ý THỨC ĐỐI THỂ SI MÊ. Và chỉ khi ta TỎ THẤU gốc rễ sinh tạo ý niệm si mê chính mình, con người mới GIẢI THOÁT khỏi si mê, mà NHẬN RA “cái biết bản chất chân thật bổn nguyên”, mà GIẢI THOÁT LUÂN HỒI. Và đó cũng chính là HÀNH TRÌNH TÂM Ý THỨC TRỞ VỀ BỔN NGUYÊN hiển bày nơi cuộc sống chính tôi.

      Xóa
    2. LINH HỒN VÀ VÍA LÀ GÌ?
      LINH HỒN còn gọi là LINH THỨC (tôi hay dùng từ Linh Thức) hay còn gọi là Bổn Tâm, là toàn bộ “cái biết bản chất bổn nguyên” mà ta đúc kết được từ sự trải nghiệm, học tập, tu hành… kể từ kiếp đầu tiên cho đến hiện tại. Nói cách khác, Linh Thức chính là TRÍ TUỆ CHÂN THẬT chính ta. Thân xác hữu hạn, chịu ảnh hưởng bởi thời gian mà sinh diệt, nhưng Linh Thức thì tồn tại mãi mãi. Linh Thức chỉ có thể học tập được khi có thể xác tạo nên các pháp đối thể cọ xát, tác động, tương tác lẫn nhau. Vì vậy mà Linh Thức chúng sinh đều theo chủng nhân lưu giữ nơi A Lại Da Thức mà LIÊN TỤC TÁI SINH có thân mới, tiếp tục tiến trình học tập mà thăng hoa tiến hóa.
      Còn THỂ VÍA là một nhánh của Linh Thức. Nó là tập hợp Ý Thức Đối Thể SI MÊ sinh ra từ thấy biết qua các giác quan, và điều khiển cuộc sống ta theo tâm ý thức si mê ấy khi quy luật nhân duyên quả nhất như vận hành. Bởi Thể Vía là tập hợp Ý Thức Đối Thể si mê, và vì là si mê nên ta muốn một đường lại gieo nhân một nẻo, muốn tốt lại gieo nhân xấu, muốn đúng lại gieo nhân sai, muốn lợi lại gieo nhân hại, muốn hạnh phúc lại gieo nhân đau khổ... mà chẳng hề biết. Nên quả theo nhân trổ luôn NGƯỢC LẠI Ý MUỐN chính mình mà tạo nên sự bức bối, lo lắng, bất an, khổ đau, dẫn đến cuộc sống mắc kẹt, bế tắc, không lối thoát. Và đặc biệt, nó khiến ta KHÔNG NHẬN RA BÀI HỌC bổn nguyên đang dạy ta, mà tỏ thấu bản chất muôn pháp nơi tâm thức thấy biết chính ta.
      Linh Thức luôn biết thể Vía nhưng thể Vía không biết Linh Thức - y như ta làm gì tâm thức ta đều biết, gọi là trời biết, đất biết, Phật biết, Quỷ Thần hai vai biết, nhưng ta thì không biết tâm thức chính ta.
      Khi ta chết đi, mặc dù Linh Thức đã theo chủng nhân lưu giữ nơi A Lại Da Thức mà đi tới nhiều cảnh giới khác nhau, nhưng Thể Vía thì tạo thành một TÂM THỨC BỊ MẮC KẸT, và bị kẹt lại, chịu khổ đau trong cõi ngạ quỷ. Nghĩa là ta bị phân thân. Ta sống vô lượng kiếp thì tạo ra vô lượng Tâm Thức Bị Mắc Kẹt. Đó là những chúng sinh do ta sinh ra, là những hóa thân mắc kẹt của ta, là con của chính ta – và ta là người hoàn toàn chịu trách nhiệm cho sự tồn tại của những hóa thân này.
      Tôi sẽ chia sẻ kỹ hơn về Thể Vía ở bài sau, trong bài hôm nay tôi sẽ nói nhiều về Linh Thức và sự tái sinh của tâm ý thức hiển bày cảnh giới mà Linh Thức ngự trị.

      Xóa
    3. VÌ SAO CẦN QUAY VỀ TỎ THẤU LINH THỨC CHÍNH TA?
      Linh Thức luôn sinh tạo ra những ý nghĩ sáng suốt, minh tường bằng sự TƯ DUY TỎ THẤU BẢN CHẤT VẤN ĐỀ, hay đưa ra những chỉ dẫn cho cuộc sống chính ta theo những cái biết mà ta đã trải nghiệm, học tập và tích lũy nhiều đời, nhiều kiếp. Linh Thức ta thăng hoa tiến hóa trên cái biết riêng nơi chính ta, nên bổn nguyên dạy ta bài học mỗi người mỗi khác, KHÔNG AI GIỐNG AI - tạo ra hoàn cảnh, cuộc sống riêng của mỗi chúng sinh. Và thông qua việc tương tác với các pháp đối thể hàng ngày, Linh Thức ta luôn tiếp nhận sự diệu dụng của những tri kiến (tri thức, kiến thức, kinh nghiệm) - là Tâm Ý Thức Đối Thể luôn thăng hoa tái sinh thành TRI KIẾN HIỂU BIẾT MỚI. Và sự thăng hoa ấy chỉ tồn tại khi ta tỏ thấu BỔN TÂM, cũng chính là bản chất nơi tri kiến hiểu biết hiển bày Tâm Ý Thức Đối Thể chính ta. Cho nên, chỉ khi ta thường TƯ DUY PHẢN TỈNH truy ngược về đối thể mà tỏ thấu bổn tâm - chính là Linh Thức ta, thì ta mới nhận ra GIÁ TRỊ BÀI HỌC mà các pháp đối thể mang lại, mà thăng hoa cái hiểu biết tri kiến nơi Tâm Ý Thức Đối Thể chính ta.
      Ngoài ra, việc đối thể đến tương tác với ta đều là theo quy luật nhân duyên quả (tôi đã chia sẻ trong bài 31). Tùy theo bổn tâm chân thật và phước đức từng người mà thời điểm các duyên tác động, tương tác để nhân trổ quả hình thành các pháp là khác nhau. Với người ĐỦ PHƯỚC ĐỨC, do bổn tâm luôn vì nhân sinh mà phụng sự, bổn nguyên vận hành quả theo nhân trổ NGAY TẠI KIẾP HIỆN TẠI, để cho Linh Thức ta trải nghiệm, học hỏi tri kiến mà thật biết bản chất các pháp, thăng hoa giải thoát nhân quả ngay thời điểm hiện tại. Còn với người PHƯỚC ĐỨC KÉM, do bổn tâm hẹp hòi, ích kỷ, luôn vì lợi ích phục vụ cái tôi bản ngã si mê chính mình, bổn nguyên vận hành cái nhân ấy phải TRẢI QUA NHIỀU KIẾP SAU mới đủ duyên để trổ - lúc ấy ta đã quên hết sạch quá khứ, nên không thể nhận ra giá trị đích thực của bài học nhân quả mà giải thoát nhân quả - tất yếu sẽ theo vòng xoáy nhân quả đáo đầu mà LUÂN HỒI học mãi bài học ấy.
      Vì vậy việc ta THƯỜNG HẰNG TƯ DUY PHẢN TỈNH QUAY VỀ BỔN TÂM – là Linh Thức chính ta là rất quan trọng, nó giúp ta nhanh chóng cuốn chiếu các bài học mà RÚT NGẮN THỜI GIAN học tập, bắt kịp sự tiến hóa của vũ trụ càn khôn. Ví như một người sống si mê phải mất 100 kiếp mới đạt được trí tuệ ở bậc nào đó, nhưng người luôn quay về Linh Thức, sẽ luôn thường hằng nhận ra bài học bổn nguyên dạy mình, thì chỉ cần 1 kiếp thôi đã ở bậc ấy rồi.
      Bổn nguyên vẫn luôn dặn tôi trong những giấc mơ rằng: “1 kiếp sống quay về tỏ thấu tâm ý thức chính mình trọn bằng 1 tỷ kiếp sống luân hồi” là vậy.

      Xóa
    4. CÁC CẢNH GIỚI CỦA LINH THỨC SAU KHI MẤT THÂN NGƯỜI
      Khi hành pháp giải thoát cho Tâm Thức Bị Mắc Kẹt, tôi đã được bổn nguyên cho trải nghiệm nhiều trường hợp khác nhau mà thấu tỏ được rằng: sau khi thân người mất đi, Linh Thức chịu sự tác động của CHỦNG NHÂN NGHIỆP - là tập hợp các Ý Thức Đối Thể huân tập tạo thành thói quen - mà ta đã gieo trong đời sống và được lưu giữ nơi A Lại Da Thức. Theo chân lý NHÂN QUẢ nhất như vận hành quả theo nhân trổ, chủng nhân nghiệp nào mạnh nhất sẽ kéo Linh Thức ta đi vào cảnh giới y vậy (trời, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục). Các cảnh giới chiêu cảm Linh Thức cư ngụ là HOÀN TOÀN TỰ ĐỘNG, vì cảnh giới tạo từ chủng nhân nghiệp ta đã gieo nơi A Lại Da Thức, không ai có thể can thiệp được.

      Xóa
    5. LINH THỨC VỀ CÕI TRỜI là Linh Thức thường làm việc thiện lành với bổn tâm TỪ BI CHÂN THẬT. Khi mất thân, nhân làm việc thiện lành kết lực mạnh nhất sẽ kéo Linh Thức về cảnh giới tương ưng là cõi trời, để hưởng phước trong một thời gian. Khi hết phước thì sẽ theo nhân lưu trữ nơi A Lại Da Thức cùng với duyên thực tại mà nhận nhiệm vụ mới, tái sinh làm người, và tiếp tục chịu sự tương tác đối thể theo nhân duyên để học tập mà thăng hoa trí tuệ.
      Ví như câu chuyện về gia đình tôi: ông bà ngoại tôi mất sớm vì chiến tranh, khi mẹ tôi còn rất nhỏ. Bác của mẹ tôi - khi ấy đang là thầy tu, xuất gia từ năm 9 tuổi và có một ngôi chùa nhỏ. Ông đã nuôi mẹ tôi cùng nhiều đứa trẻ mồ côi, và những người bị mất nhà cửa vì chiến tranh khác. Ông lo cho tất cả những đứa trẻ đều có ăn có mặc và được đi học đầy đủ. Ông nuôi bộ đội và tất cả những người bần cùng tìm đến chùa. Ông sống cuộc đời đạm bạc, kham khổ nhưng nhất định mọi người phải luôn được đầy đủ. Khi ông mất đi, đám tang tổ chức đơn giản nhưng đoàn người đưa tang ông kéo dài hơn 3km, người đi xe, kẻ đi bộ chật kín đường, ai nấy đều thương tiếc ông.
      Sau khi ông mất được 10 năm, tôi bắt đầu đi trên con đường giải thoát, và được bổn nguyên cho xem các cảnh giới Linh Thức người đi về sau khi chết. Tôi đã hỏi về ông ngoại làm thầy tu của mình: sau khi chết, ông đã đi về đâu? Tôi thấy ở nơi ấy ánh sáng trắng chói lòa phủ khắp không gian. Bổn nguyên thị hiện hình ông là ánh sáng nhiều màu rực rỡ, xen lẫn ánh sáng trắng. Ở nơi ấy tỏa ra nguồn năng lượng thanh mát, thật dễ chịu.
      Sau khi thiền xong, tôi kể Cô nghe về những gì đã thấy về ông mình, thì được biết rằng đó là bản thể về một cảnh giới cõi trời. Trước kia ông đã hành hạnh nguyện Bồ Tát, xuống thế gian này để cứu khổ chúng sinh. Khi mất đi ông về cảnh giới cõi trời theo cấp bậc tu hành của mình mà nghỉ ngơi, hưởng phước, một thời gian sau sẽ nhận nhiệm vụ mới mà tái sinh làm người để tiếp tục học tập.
      Và thật vậy, sau này khi trí tuệ tôi đã phát triển hơn, có thể xem được các kiếp quá khứ và hiện tại của nhân sinh, tôi biết được rằng: ông đã tái sinh vào làm đứa con thứ 2 của anh trai tôi, hiện giờ cậu bé đang được 2 tuổi. Gia đình anh trai đang sống cùng mẹ tôi (người xưa kia từng được ông nuôi dưỡng). Mẹ tôi và cậu bé cực kỳ quấn quít nhau, mẹ chăm sóc cháu mình từng ly từng tí, hệt như khi xưa ông đã từng chăm lo cho mẹ.
      Sau chuyện của ông, tôi cũng nhận ra rằng cõi trời luôn gắn liền chứ chưa từng xa rời tâm thức chính ta. Chỉ cần khi sống, ta NGUYỆN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ, LUÔN VÌ SỰ ĐAU KHỔ CỦA CHÚNG SINH MÀ LÀM CÁC VIỆC THIỆN LÀNH, thì tất cả chúng ta đều có thể về cõi trời. Và theo tiến trình tiến hóa, sau một thời gian ở cõi trời ấy, ta lại nhận nhiệm vụ mới mà tái sinh làm người, tiếp tục học tập để thăng hoa trí tuệ, từ Nhân (Người) lên Trung Nhân (là người trọn nhân nghĩa - hiếu - trung), rồi đến Đại Nhân (Thần, Thánh), lên Thượng Nhân (Bồ Tát), rồi đến Vô Thượng Nhân (Phật).

      Xóa
    6. LINH THỨC XUỐNG ĐỊA NGỤC thọ khổ là những Linh Thức khi làm người bị sự sân hận nơi tâm ý thức si mê dẫn dắt tạo NGHIỆP ÁC: giết người, đánh đập, hiếp dâm, cướp của, lừa đảo... Ta làm cho người bị đau khổ, sợ hãi, bất an, điên cuồng... như thế nào, thì ta sẽ chịu cái cảm thọ khổ đau y như vậy, và mức độ cảm thọ sẽ tăng dần theo thời gian, gọi là chịu lãi suất...
      Nhân nghiệp sân hận si mê cạn hay sâu dày, thì cảnh giới tạo ra từ sự sân hận tối tăm ấy, cũng theo mức độ sâu cạn mà hình thành nên “ngục thức a tỳ” vô gián hay hữu gián (ngục thức a tỳ: thọ hình cảnh ngục tù do tâm thức mình tạo ra, vô gián: sự thọ hình liên tục, tới tấp không ngừng nghỉ, hữu gián: sự thọ hình có quãng nghỉ), để Linh Thức cũng theo cảnh a tỳ mà có sự thọ khổ tương ưng.
      Linh Thức sau khi thọ khổ xong sẽ được chuyển lên cảnh giới ngạ quỷ, ở đây mà nương vào người thân còn sống để làm việc thiện nguyện, tích lũy phước đức. Tùy theo duyên vận hành nơi nhân đã tạo lưu giữ nơi A Lại Da Thức, mà có thể đầu thai làm súc sinh để giải thoát nhân si mê, hay đủ duyên phước thì có thể tái sinh làm người để tiếp tục học tập.
      Sau khi đầu thai, họ tiếp tục tương tác với những Đối Thể là nhân duyên trong quá khứ mà trả nghiệp khi xưa để học cái biết đối nhân xử thế. Ví như khi xưa gieo nhân hại người, thì chính người bị hại ấy khi đủ duyên, sẽ là lực lượng đối thể quay lại để đòi nợ, nhằm giúp ta hóa giải Tâm Ý Thức Đối Thể si mê xưa kia ta sinh tạo. Hiểu vậy, khi trả nghiệp, ta sẽ không oán trách người vì đã hại ta, để giải thoát nhân hại người khi xưa ta đã gieo, mà chấm dứt bài học luân hồi – sau này ở các kiếp sau, ta sẽ chẳng gặp lại họ nữa.
      Tôi đã từng tiếp xúc làm việc với một bà, là hàng xóm nhà tôi, từ nhỏ tôi hay qua chơi với bà, nên luôn xem bà như người thân của mình. Tôi không hề biết rằng trong quá khứ cách đây hơn 30 năm, vì si mê vào danh dự, bà đã ép con gái mình phá thai – cái thai lúc đó đã hơn 6 tháng, đã biết cảm nhận được sự đau đớn. Vì người yêu của con bà không chịu cưới, nên để bảo vệ danh dự cho con gái và cho gia đình mình, bà đã không nghĩ đến sự đau đớn của đứa bé khi bị bức tử, không nghĩ đến sự nguy hiểm tính mạng của người mẹ khi bỏ thai đã lớn, không nghĩ đến mạng sống đứa bé đang trông chờ từng ngày để có được tấm thân người quý giá - mà ép con gái mình phá thai.
      Tôi đã không hề biết chuyện đó, cho đến khi Tâm Thức Bị Mắc Kẹt của anh ấy (em bé) đến tìm tôi. Sau khi tôi giải thoát cho tâm thức uất hận nơi anh, thì 6 tháng sau bà bị hôn mê. Tôi vào viện thăm và phát hiện Linh Thức bà đã không còn ở đây nữa, chỉ còn Tâm Thức Bị Mắc Kẹt bấu víu vào thân xác mà nằm lại thôi. Sau đó bổn nguyên đã cho tôi biết rằng Linh Thức bà đang ở một cảnh giới địa ngục.

      Xóa
    7. Tôi tới đó thì thấy bà đang bị nhốt trong một quả bóng bằng sắt và dung dịch bên trong quả bóng ấy khiến bà chịu cảnh đau xé khắp người. Xưa kia bà vì si mê vào danh vọng mà sân hận chửi mắng, tạo ác nghiệp giết người bằng hành động bắt người phá thai. Bác sĩ đã dùng nước muối đặc bơm vào tử cung người mẹ khiến em bé bị ngạt thở, bị bỏng toàn thân, lở loét mà chết trong đau đớn. Nên nay Linh Thức bà được nhốt vào quả cầu như một thai nhi được bọc trong bào thai, bị dung dịch nước muối làm cho đau đớn, lở loét, ngạt thở giống y vậy. Bổn nguyên miêu tả cảm giác đau đớn bà phải thọ chịu là cảm giác bị hàng trăm quả sầu riêng sắt đâm khắp người, nỗi đau đớn ấy gấp nhiều lần nỗi đau đớn của đứa bé mà bà đã mượn tay bác sĩ để phá bỏ. Tất cả đều là để bà THẤU HIỂU CẢM GIÁC ĐAU ĐỚN mà đứa bé phải chịu. Để rồi từ đó, bà biết chân thành sám hối ăn năn, biết động lòng thương xót trước nỗi đau chúng sinh, mà dừng tạo nghiệp sát hại người chỉ để bảo vệ cái danh ngã chính mình.
      Bà và người trong gia đình có thể che giấu chuyện quá khứ ấy thành bí mật nơi thế gian, nhưng làm sao có thể giấu được tâm thức chính mình. Bà làm sao có thể che giấu được NHÂN QUẢ nhất như vận hành chủng nhân đã gieo được LƯU GIỮ nơi A Lại Da Thức theo duyên trổ quả, để chính Linh Thức ta THỌ NHẬN mọi cảm giác đau khổ, bức bách, đau đớn tận cùng mà ta đã gây ra cho người. Luật pháp thế gian có thể bỏ sót, nhưng quy luật nhân quả do trời đất vận hành ngay tâm ý thức chính ta luôn CÔNG BẰNG TUYỆT ĐỐI, không hề sai lệch.

      Xóa
    8. LINH THỨC Ở CÕI NGẠ QUỶ là Linh Thức khi người còn sống bị hai loại TÂM THAM MUỐN dẫn dắt mà sinh tạo Ý Thức Đối Thể si mê, đó là: tâm tham muốn cho mình và tâm tham muốn cho người.
      * Linh Thức khi làm người bị tâm THAM MUỐN CHO MÌNH dẫn dắt, sinh tạo nên Ý Thức Đối Thể si mê. Tâm càng tham muốn thì càng thấy thiếu, không bao giờ biết đủ - là chiều ngược lại nơi Tâm Ý Thức Đối Thể - mà tạo nên hình tướng ngạ quỷ.
      Phần lớn chúng sinh tôi giải thoát si mê là nằm trong cõi ngạ quỷ, và tần số nơi tôi thường nhìn thấy họ dưới dạng khí đen. Một lần tôi đã nói bổn nguyên thị hiện hình tướng họ cho tôi xem, tôi thấy họ có cái đầu bằng xương nhỏ xíu (chỉ to bằng nắm tay), đôi mắt màu đỏ. Cái cổ nhỏ xíu như cái đũa nhưng dài loằng ngoằng như cổ đà điểu, cái bụng thì to như cái trống. Tay chân ngắn, chỉ là những cái xương như cái que. Và họ lúc nào cũng chạy, chạy liên tục, chạy vội vã, lúc nào cũng nhao nhao mà tranh giành nhau.
      Bởi bộ não để tư duy không có nên cái đầu họ bé xíu, đôi mắt màu đỏ bởi cái tâm tham lam nhìn đâu cũng thấy tham muốn cho mình. Bởi bản chất tâm thức đối thể là luôn ngược lại ý muốn, mà hiện tướng cái bụng và cái cổ đối ngược nhau mà tạo cảm thọ đau khổ vô cùng: cổ họng vừa nhỏ vừa dài, không thể nuốt thức ăn để đáp ứng cho cái bụng lớn ấy. Có khi tham quá, cố nuốt mà vỡ họng chết, thân tướng tan vỡ ra như mảnh bụi, rồi lại kết tụ thành thân ấy mà tiếp tục thọ khổ, y như mây tan hoại bốc hơi thành hơi nước rồi lại kết tụ thành mây. Họ chạy liên tục, chạy vội vã, cũng đều xuất phát từ cái tâm thức tham muốn, sợ người giành mất quyền lợi mà nháo nhào, giành giựt nhau. Sự thọ khổ cứ kéo dài tiếp nối vậy không bao giờ dứt.
      Bản chất cái tâm tham muốn nơi Tâm Ý Thức Đối Thể ấy như thế nào, thì chiêu cảm cảnh giới tương ưng như thế, mà hiện tướng ngạ quỷ thể hiện đúng bản chất tâm ấy. Cảnh giới chiêu cảm Linh Thức là HOÀN TOÀN TỰ ĐỘNG vì được trích xuất từ những gì được lưu trữ trong A Lại Da Thức, cho dù người lúc sống có nhận diện ra tâm tham muốn ấy hay không, hay cho rằng mình có/ không có tâm ấy.
      Cho đến khi sự thọ khổ ở cảnh giới ngạ quỷ nơi tâm tham muốn ấy đã đủ, hay đủ duyên được ân xá, gặp thiện hữu tri thức đến giải thích nguyên nhân vì sao bị thọ khổ mà thoát khổ, rồi theo duyên thực tại mà thăng hoa cảnh giới mới (đầu thai làm SÚC SINH, hoặc làm NGƯỜI) để trải nghiệm mà GIẢI THOÁT những nhân nghiệp quá khứ, tiếp tục tiến trình thăng hoa tiến hóa nơi sự sống con người và muôn loài vạn vật.

      Xóa
    9. * Loại tâm tham muốn thứ hai là TÂM THAM MUỐN CHO NGƯỜI, làm việc phước thiện giúp người nhưng lại tạo nên Ý Thức Đối Thể Si Mê, rồi bị nó dẫn dắt mà tranh giành hơn thua, suy tính thiệt hơn khi đụng đến quyền lợi làm phước thiện. Để rồi sinh tâm so đo được mất, mà tạo nhân ngược lại với ý muốn làm lợi ích, giúp người hết khổ. Đó là nhân muốn lợi mà thành hại, muốn hết khổ mà thành tăng trưởng đau khổ - là bản chất nơi tâm tham muốn tạo nên CẢNH GIỚI NGẠ QUỶ HƯỞNG PHƯỚC BÁU đã tạo từ việc giúp người, nhưng luôn thọ nhận sự đau khổ bởi tâm thức tính toán thiệt hơn, quyền lợi được mất, cao thấp... Ví như: Khi sống ta thường làm việc thiện, rồi tự cho mình là thiện mà luôn đem tâm phán xét, trì chiết người khác là ác. Hay là ta làm việc thiện, bố thí cho người rồi mà còn tính toán thiệt hơn, bắt người phải làm theo ý mình, để rồi thấy người làm bất như ý thì quay sang nói xấu, phán xét, chỉ trích. Hay làm từ thiện vì danh tiếng, vì quyền lợi, hình ảnh cá nhân…
      Cảnh giới ngạ quỷ ấy tồn tại song hành với người dương, dương sao âm vậy. Tôi cũng chỉ nhìn thấy họ dưới dạng khí xám hoặc trắng - còn khi bổn nguyên thị hiện hình tướng cho tôi thấy - thì họ cũng mang hình dạng, tính cách giống như người thường, cũng biết đói, biết rét, biết buồn, biết vui, giận hờn… Họ luôn bên cạnh người thân, cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cháu hoặc bạn bè... Để tác động vào tâm thức người thân, giúp họ làm các việc thiện lành, siêng năng công phu niệm Phật… mà tích lũy, vun bồi công đức, chờ đủ duyên, đủ phước đức tái sinh vào CÕI NGƯỜI, tiếp tục con đường trải nghiệm và học tập để thấu tỏ cái thấy biết nơi tâm ý thức hình thành cuộc sống chính ta.
      Từ khi hành hạnh nguyện giải thoát si mê, tôi đã đi gặp hầu hết những người thân đã mất trong gia đình mình, một số người Linh Thức đã tái sinh làm người, một số thì vẫn kẹt lại ở cõi ngạ quỷ. Ví như ông nội tôi, ở cõi ngạ quỷ làm thân cô hồn trong 19 năm, rồi mới đủ nhân duyên phước đức có thân người mà tái sinh làm đứa con trai út của anh trai tôi, nay đang được 6 tháng tuổi. Hay Linh Thức của cậu bé bị phá thai kia, sau khi mất thân theo cảnh tương ưng cùng nhân nghiệp lưu giữ nơi A Lại Da Thức mà ở trong cõi ngạ quỷ hơn 10 năm, thì được tái sinh làm người con trai tiếp theo của cùng người mẹ ấy, hiện nay cậu đã hơn 20 tuổi rồi.
      Qua tiếp xúc với các Linh Thức ở cõi ngạ quỷ, tôi cũng thấu tỏ được rằng: Linh Thức ở cõi ngạ quỷ không có thân xác nên thường cảm thấy lạnh lẽo, cô đơn, mê mờ. Tất cả đều mong muốn được TÁI SINH LÀM NGƯỜI, được có mái nhà là thân xác để che chở, giữ ấm, có bộ não biết tư duy để tiếp tục con đường học tập mà thăng hoa, tiến hóa. Vì vậy thân người mà tôi đang có THẬT ĐÁNG QUÝ.

      Xóa
    10. LINH THỨC Ở TRONG CẢNH GIỚI SÚC SINH là những LINH THỨC BỊ THẤY BIẾT NGĂN CHE DẪN DẮT tạo nhân si mê sâu dày, lưu giữ nơi A Lại Da Thức.
      “Bị thấy biết” là gốc rễ sinh tạo Ý Thức Đối Thể Si Mê nơi tâm thức, là cái thấy luôn hướng về đối thể, để thấy đối thể bằng tâm ý thức chính mình, khiến ta gieo nhân quả nhầm lẫn, thấy đúng liền là sai, nên gọi là bị thấy biết. “Bị thấy biết” là cái thấy biết chẳng thật biết, ví như mặt trời luôn soi sáng đám mây, nhưng vì cái thấy biết ta luôn hướng về đối thể mà thấy mây che khuất mặt trời, nên là thấy biết chẳng thật biết vì bị đối thể ngăn che.
      Bản chất của tâm thức si mê là luôn bám víu vào sắc tướng, cảnh sắc, âm thanh...bám chặt vào những thứ mình sanh tạo như danh lợi, tiền, tình, chấp chặt vào thấy biết đối thể, chỉ để phán xét, chỉ trích, trách móc người, trách móc hoàn cảnh, sự vật, sự việc..., để chẳng tỏ thấu đối thể nơi tâm ý thức chính mình, luôn hợp nhất tạo nên chính nhân hình thành sắc tướng thân người, nên luôn tách đối thể là ý nơi ta cho là ý nơi người, mà phá nát chính nhân làm người.
      Thân sao, tâm y vậy - thân đâu tâm đó - thân người ắt tâm cũng là người. Ví như THÂN TƯỚNG ta hợp nhất từ đối thể trái phải, trước sau, trên dưới, trong ngoài... ắt TÂM THỨC ta cũng tương ưng, mà hiển bày cặp tâm ý thức đối thể: đúng sai, phải trái, thiện ác, chính tà, tốt xấu... Tất cả luôn HỢP NHẤT thành thể nhất như, tạo chính nhân chiêu cảm hình thành CẢNH GIỚI LOÀI NGƯỜI.
      BẢN CHẤT TÂM THỨC CON NGƯỜI là Ý Thức Đối Thể luôn hợp nhất thành thể nhất như, không thể tách rời (ví như hai mặt xấp ngửa luôn dính liền nhau tạo thành thân tướng một bàn tay). Vì si mê chẳng rõ thấu được bản chất ấy, nên con người thường TÁCH ĐỐI THỂ ra làm hai, một ý cho mình và một ý cho người, liền thấy mình đúng và thấy người sai, liền thấy mình thiện và thấy người ác, liền thấy mình tốt và thấy người xấu...
      Do vậy, theo NHÂN PHÁ NÁT ấy mà bị tổn phước, KHÔNG ĐỦ PHƯỚC ĐỨC TẠO THÂN NGƯỜI nên khi mất thân người, theo NHÂN SI MÊ chiêu cảm làm thân súc sinh. Vì là súc sinh không có bộ não hoàn thiện để tư duy phát triển trí tuệ, nên bị GIÁN ĐOẠN quá trình học tập. Tùy theo tập nhân si mê đã gieo tương ưng các giác quan mà tạo nên tính súc sinh hình thành nhân tương ứng. Ví như tính bám chấp tài sản, giữ của khứ khư, bênh vực người thân là tính con chó, ắt theo nhân si mê tạo nên thân tướng con chó, rồi quay lại chỗ ở cũ mà giữ của và bảo vệ tài sản lẫn người thân…
      Khi thọ khổ đủ số lượng kiếp súc sinh để đủ phước đức tạo thân người, Linh Thức sẽ được tái sinh làm người và tiếp tục quay lại con đường học tập.

      Xóa
    11. Một lần nọ, tôi sang nhà bạn chơi, thì thấy có một chú chó rất khôn, chú đã sống cùng gia đình bạn tôi hơn 15 năm rồi và luôn được xem như một thành viên quan trọng của gia đình. Nghe bạn tôi kể thì chú chó ấy khôn y như người, từ phong cách ăn uống đến suy nghĩ, chú hầu như hiểu hết các hiệu lệnh của chủ nhân. Chú ăn sang và ưa sạch sẽ giống như người, nên gia đình bạn tôi chăm chú rất cẩn thận. Chú chó ấy rất hung dữ, những ai mang đồ trong nhà ra ngoài thì chú gầm gừ không cho mang đi, còn những ai tự ý đi vô nhà mà không có chủ thì đều bị cạp vào mông. Đặc biệt, chú cực kỳ quấn quít cha của bạn ấy. Bác đi đâu chú cũng đi theo, thấy ai sáp lại gần bác, ra vẻ đe dọa thì chú chó lại cuống cuồng tìm cách giải cứu. Mối giao cảm giữa chú chó và cha của bạn tôi thật đặc biệt.
      Khi viết đến phần này, tôi đã hỏi bổn nguyên về kiếp trước của chú chó đặc biệt ấy. Và đã rất bất ngờ khi nhận được kết quả: chú chó này chính là ông nội của bạn tôi. Vì trong cuộc sống, ông bị thấy biết si mê dẫn dắt mà gieo nhân si mê bám chấp vào tài sản gia đình, ông si mê yêu thương đứa con và muốn bảo vệ nó, ông si mê bám chấp vào những thứ ông tạo ra như nhà cửa, con cái, gia sản... Để rồi ông PHÁ NÁT chính nhân làm người, khi THÂN thì làm người còn TÂM thì ở nơi những thứ ông tạo ra là nhà cửa, tài sản và con cái. Đến khi mất thân người, Linh Thức ông theo nhân si mê ấy mà tái sinh vào thân con chó. Vì bám chấp vào tài sản gia đình mà mang thân chó theo niệm bám chấp mà quay về cảnh cũ để canh giữ nhà cửa, tài sản ấy. Và vì kiếp trước quá thương con trai mình, khi đầu thai, ông theo ý niệm yêu thương con trai mà quay về cảnh cũ làm con chó luôn quấn quít bên cha của bạn tôi như hình với bóng.
      Bổn nguyên còn cho tôi biết rằng, tuy mang thân súc sinh, nhưng ông là người tu hành có trí tuệ, và bản thân có nhiều công đức, nên chỉ phải mang thân súc sinh một kiếp thôi. Sau khi rút khỏi thân súc sinh này, ông sẽ được đầu thai làm con trai của chị người bạn tôi, để tiếp tục hành trình học tập, thăng hoa tiến hóa mà hiện nay đang bị gián đoạn.

      Xóa
    12. Sau khi được bổn nguyên cho tìm hiểu về các cảnh giới và sự tái sinh của Linh Thức, tôi đã nhận ra rằng: Linh Thức được mang thân người, sống trong CẢNH GIỚI CÕI NGƯỜI LÀ ĐÁNG QUÝ NHẤT. Vì chỉ có mang thân người thì ta mới có một bộ não hoàn thiện để TƯ DUY PHẢN TỈNH khi đối thể đến tương tác với ta theo nhân duyên, để ta luôn MỞ RỘNG TRÍ TUỆ mà thăng hoa, tiến hóa theo từng cấp bậc: từ Nhân, lên Trung Nhân, rồi đến Đại Nhân, lên Thượng Nhân và cuối cùng là Vô Thượng Nhân - mà VIÊN TRÒN TUỆ GIÁC, mà thấu suốt quá trình hình thành các cảnh giới tạo nên SỰ SỐNG VĨNH HẰNG nơi tâm thức chính ta.
      Đó cũng là ĐỈNH CHÓP mà Tâm Ý Thức Đối Thể con người luôn xoay vần, tạo khung đóng thành hình tháp. Đó là vị trí đỉnh chóp hội tụ tâm thức đối thể, cũng là nơi mà CON MẮT TRÍ TUỆ chính ta ngự trị. Để từ đó ta phóng tầm mắt mà THẤU SUỐT, TỎ TƯỜNG hết bản chất muôn pháp thế gian - giúp ta và người triệt tận nỗi đau khổ, sợ hãi, bất an… để tâm ta luôn an nhiên, tự tại vào sinh ra tử.
      * Tôi cũng nhận ra rằng thân người CÓ SINH CÓ DIỆT, nhưng tâm thức ta là BẤT DIỆT. Một kiếp người giống như một vai diễn, vai diễn này kết thúc thì ta diễn vai khác mà học những cái biết mới. Cái biết ấy có được từ sự TƯ DUY PHẢN TỈNH mà thể hiện HÀNH ĐỘNG ỨNG XỬ, ĐỐI NHÂN XỬ THẾ nơi ta ở thực tại mà quyết định cuộc sống chính ta.
      Khi tôi hiểu ra rằng sự sống nơi Linh Thức là trường tồn, tôi không quá đau buồn khi người thân mình mất đi nữa, vì tôi biết rằng họ sẽ tiếp tục tái sinh trong tương lai để tiếp nối sự sống bất diệt. Chết đi đơn giản chỉ là ta trút bỏ tấm áo cũ để khoác lên mình tấm áo mới, hiểu vậy tôi thấy lòng mình bình thản trước cảnh vào sinh ra tử nơi thế gian.
      * Tôi cũng hiểu ra rằng tất cả những người xung quanh tôi hiện tại, đều là thân bằng quyến thuộc, người thân yêu của tôi trong quá khứ. Chỉ có xác thân thay đổi, vai diễn thay đổi chứ Linh Thức người đóng chỉ là một - nên tình thương yêu nơi tôi dành cho mọi người đều như nhau, không có sự phân biệt, vì ai cũng đều là người thân của chính mình.
      Tôi cưới chồng và sống cùng mẹ chồng của mình. Mặc dù mẹ chồng tôi rất tốt nhưng tất nhiên trong lòng tôi vẫn luôn thương mẹ đẻ hơn – chắc chắn bất cứ nàng dâu cũng đều như vậy. Nhưng trong một lần tình cờ, vào ngày giỗ của bà ngoại chồng (tức mẹ của mẹ chồng tôi), tôi được bổn nguyên chỉ cho biết rằng bà ngoại chồng ấy chính là… kiếp trước của tôi. Tôi đã ngạc nhiên đến mức há hốc mồm khi biết điều đó. Sau này truy ngược về quá khứ, thì tôi phát hiện ra bà mất năm 1987, còn tôi sinh năm 1991. Bà mất vì bị chết đuối, còn tôi thì kiếp trước có một Tâm Thức Bị Mắc Kẹt vì bám chấp vào cảnh chết đuối dưới biển mà tạo thành hóa thân chịu khổ đau vùng vẫy nơi đó (ở bài 10). Vậy nghĩa là bà mất được 4 năm là tái sinh thành tôi.

      Xóa
    13. Mẹ chồng tôi vẫn luôn day dứt rằng, vì mẹ nói bà đi tắm biển mà khiến bà bị chết đuối, nỗi day dứt ấy hơn 30 năm qua vẫn không được giải tỏa. Khi tôi biết được điều này, tôi đã nói với mẹ rằng, bà ngoại mất không phải là lỗi của mẹ, mà vì bà đã xong nhiệm vụ thế gian ở kiếp người ấy, nên chết đuối chỉ là cái duyên để bà tái sinh vào thân người mới, nhận vai trò mới, và bà hiện cũng đang ở Việt Nam này. Bà đang tiếp nối sự nghiệp phụng sự nhân sinh, mà học tập cái thấy biết tỏ thấu tâm ý thức, để thật biết bản chất tâm thức bổn nguyên, mà giúp chúng sinh đồng giải thoát. Tuy mẹ chồng tôi không nói gì, nhưng tôi biết mẹ cũng được giải tỏa phần nào, rồi từ từ mẹ cũng sẽ hiểu hết.
      Từ câu chuyện của bản thân mình, tôi mới nhận ra SỰ KỲ DIỆU của việc Linh Thức tái sinh. Vậy hóa ra mẹ chồng tôi chẳng phải cũng chính là người thân yêu ruột thịt xưa kia, mà tôi đã từng mang nặng đẻ đau, chăm sóc thương yêu hết lòng đó sao. Vậy chẳng phải cái tâm phân biệt mẹ chồng – mẹ ruột xưa kia nơi chính mình thật là VÔ LÝ đó sao. Khi thật sự hiểu mình, hiểu người, tôi đã hoàn toàn thay đổi, HOÀN TOÀN XÓA BỎ TÂM PHÂN BIỆT.
      * Về sau tôi còn biết được rằng: mẹ chồng và mẹ ruột tôi nhiều đời nhiều kiếp là mẹ của tôi, mối nhân duyên giữa tôi với hai người mẹ này vô cùng sâu đậm. Tôi còn biết được rằng con trai tôi có kiếp trước từng là ông ngoại chồng tôi, con gái tôi chính là bà nội chồng tái sinh, hay như tôi đã viết phía trên, hai người cháu trai của tôi lần lượt là ông nội và ông ngoại tôi tái sinh. Để giờ đây, tôi HOÀN TOÀN THẤU TỎ được bức tranh của của cửu huyền thất tổ, ông bà mẹ cha, thân bằng quyến thuộc của nhân sinh trong thế giới loài người. Tất cả đều là những người thân thiết trong quá khứ nơi Linh Thức chính ta. Tổ tiên ta, ông bà ta chính là TIỀN KIẾP, là HÓA THÂN của chính ta. Và ta chính là người KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG TỔ TIÊN để lại, cũng chính là kẻ tiếp nối HÀNH TRÌNH PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ NƠI TÂM THỨC CON NGƯỜI, từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
      Khi tôi hiểu ra điều ấy, tức khắc tôi không còn quá đau buồn khi người thân mất đi, vì tôi biết CHẮC CHẮN sẽ gặp lại họ trong tương lai. Và họ cũng sẽ tiếp tục là thân bằng quyến thuộc của chính tôi, nên tôi sẽ luôn ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG với tất cả mọi người tôi gặp. Tôi cũng nguyện hồi hướng những công đức tu hành đến họ, để họ sớm đủ duyên tái sinh, mà tiếp tục cuộc hành trình tiến hóa.

      Xóa
    14. Khi tôi hiểu ra rằng cuộc đời này chẳng qua chỉ là vai diễn, tất cả các cảnh giới, hay nhân quả vận hành đều chỉ là bài học bổn nguyên dạy cho mỗi chúng sinh, tức khắc trong tôi không còn khái niệm về thiện và ác, không còn phán xét chỉ trích người, vì đơn giản tất cả những gì xảy ra chỉ là những bài học. Người thiện hay ác, người tốt hay xấu, người si mê hay thấu tỏ… tất cả đều là bổn nguyên phân vai cho họ diễn kịch trước mắt ta, để dạy ta bài học gì đó về bổn tâm mà thôi. Ví như ông ngoại thầy tu tôi đóng vai người thiện lương, bà hàng xóm đóng vai người ác sát hại thai nhi, ông nội của bạn tôi đóng vai si mê làm thân súc sinh… Suy cho cùng, tất cả chúng sinh đều là THẦY, đều là hóa thân bổn nguyên hay Như Lai, tới dạy tôi BÀI HỌC LÀM NGƯỜI. Vậy nên tôi luôn BIẾT ƠN đối thể và luôn dành TÌNH YÊU THƯƠNG BÌNH ĐẲNG đến họ.
      Tôi cũng thường dặn những người có duyên tiếp xúc với mình rằng: ta luôn dành TÌNH YÊU THƯƠNG BÌNH ĐẲNG tới tất cả chúng sinh, cho dù là súc sinh nhỏ bé - là đối thể đến tương tác với ta – bởi vì tất cả đều là NGƯỜI THÂN của chính ta ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Thân người này vô cùng đáng quý, chỉ ở thân người ta mới PHÁT TÂM BỒ ĐỀ mở rộng tình yêu thương chúng sinh, làm các việc thiện lành mà giúp ích cho đời. Ta luôn TƯ DUY PHẢN TỈNH RÕ THẤU TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ SI MÊ, để tâm thức ta luôn giữ chính nhân làm người không ngừng phát triển mà đi lên, hoàn thành nhiệm vụ một kiếp người nơi thế gian này.

      Xóa
  2. 33. RÕ THẤU GỐC RỄ SINH RA KHỔ ĐAU, CHUYỂN HÓA SI MÊ THÀNH TRÍ TUỆ
    Trước kia tôi luôn nghĩ rằng chỉ cần mình sống tốt với mọi người thì mình sẽ hạnh phúc, sẽ gặp những điều may mắn. Nhưng sau này, khi chuỗi xui xẻo, bế tắc cứ dồn dập kéo đến, tôi mới giật mình nhận ra rằng ý nghĩ kia là không đúng, bởi vì tôi thấy mình cứ khổ hoài: bệnh tật, gia đình lục đục, công việc trục trặc... toàn là những chuyện bất như ý xảy ra, khiến tôi luôn buồn rầu, lo lắng, khổ sở. Cuối cùng, tôi phát hiện ra rằng định nghĩa “sống tốt” từ trước tới giờ mình hiểu và giải quyết chỉ là cái ngọn, còn cái gốc rễ thì vẫn không ngừng sinh sôi. VẬY THÌ CÁI GỐC RỄ CỦA SỰ KHỔ ĐAU ẤY NẰM Ở ĐÂU?
    Ở bài 32, tôi đã chia sẻ, trên thân ta luôn tồn tại LINH HỒN (Linh Thức) và THỂ VÍA. Linh Thức là toàn bộ “cái biết bản chất bổn nguyên” mà ta đúc kết được từ sự trải nghiệm, học tập, tu hành… kể từ kiếp đầu tiên cho đến hiện tại. Nói cách khác, Linh Thức chính là TRÍ TUỆ SÁNG SUỐT CHÂN THẬT chính ta.
    Còn THỂ VÍA là một nhánh của Linh Thức, là tập hợp Ý Thức Đối Thể SI MÊ sinh ra từ ”bị thấy biết” qua các giác quan, và điều khiển cuộc sống ta theo tâm ý thức đối thể ấy. Vì vận hành cuộc sống ta theo tâm ý thức đối thể si mê, nên Thể Vía chính là GỐC RỄ GÂY RA KHỔ ĐAU, BẾ TẮC nơi tâm thức chính ta ở thực tại. Không chỉ có vậy, khi ta chết đi, Thể Vía còn tạo thành TÂM THỨC BỊ MẮC KẸT (hóa thân), chịu khổ đau trong cõi ngạ quỷ - mặc dù Linh Thức đã theo chủng nhân lưu giữ nơi A Lại Da Thức mà đi tới nhiều cảnh giới khác nhau. Ta khổ sở, bế tắc ở cuộc đời lúc sống như thế nào, thì hóa thân ta cũng chìm ngập trong đau khổ y như vậy, khổ đời đời kiếp kiếp không thể giải thoát...

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Vì phạm trù nói về Thể Vía này khá rộng, nên bài này tôi chỉ chia sẻ về NGUYÊN NHÂN GÂY RA KHỔ ĐAU, Ý NGHĨA CỦA VIỆC BẤT NHƯ Ý XẢY RA TRONG ĐỜI SỐNG NHÂN SINH THỰC TẠI, VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HÀNH GIẢI THOÁT TÂM Ý THỨC ĐỐI THỂ SI MÊ nơi cuộc sống chính tôi. Còn về trải nghiệm giải thoát cho Hóa Thân Bị Mắc Kẹt nhiều đời nhiều kiếp nơi tâm thức chính tôi, tôi sẽ chia sẻ ở các câu chuyện sau này.
      🍀🍀 NGUYÊN NHÂN GỐC RỄ GÂY RA KHỔ ĐAU NƠI TÂM THỨC
      * “BỊ THẤY BIẾT” SI MÊ LÀ BẢN CHẤT VỐN CÓ NƠI TÂM THỨC CON NGƯỜI
      Khi tâm thức có thân người, ta luôn tương tác với đối thể (người, vật, sự vật, sự việc, hiện tượng…) qua các giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân), từ đó não sinh ra Ý Niệm để biết về đối thể. Nghĩa là những điều ta thấy để biết về đối thể, đều là Ý NIỆM DO NÃO TA SINH TẠO. Nhưng ta thường chẳng nhận ra sự thật ấy, lại luôn hướng về đối thể mà DÁN NHỮNG Ý NIỆM (do ta sinh ra) vào đối thể, và TỰ CHO RẰNG đó là bản chất thật sự của đối thể. Đó chính là “BỊ THẤY BIẾT” – cái thấy biết KHÔNG THẬT BIẾT về đối thể, vì những gì ta thấy đều chỉ là tâm ý chính ta. Hệt như khi ta nhìn thấy đám mây, thì não ta sinh ra ý niệm cho rằng đám mây che mặt trời, nhưng về bản chất thì mặt trời luôn soi sáng đám mây mà ta thường chẳng nhận ra.
      Khi ta dán ý niệm vào đối thể, chính là tách ý niệm ra khỏi thân xác - đó là ta đã biến ý niệm trở thành ĐỐI THỂ ĐỐI LẬP với Linh Thức chính ta - đó chính là “bị thấy biết” ngăn che giác thể, khiến cho ta chẳng tỏ thấu đối thể tâm ý thức mình sinh tạo - y như đám mây đối thể ngăn che thấy biết nơi ta, khiến ta chỉ thấy mây che mặt trời, chẳng thể thấy mặt trời luôn soi sáng đám mây. Cho nên, bản chất “bị thấy biết” là SI MÊ, tưởng tri điên đảo.

      Xóa
    2. Con người sinh ra VỐN DĨ ĐÃ SI MÊ. Bằng chứng là trẻ con luôn nghĩ và hành động theo bản tính si mê vốn có. Chúng rất hay nổi cáu, giận hờn và khóc lên khi không được chiều theo ý thích. Đồ chơi để mốc meo lâu ngày không chơi, ngay khi có đứa trẻ khác sờ tới thì liền tranh giành, thể hiện quyền sở hữu. Chúng hay so đo, hơn thua, hay tị nạnh nhau. Cái tốt được khen thì hay nhận về mình, còn cái xấu hay tội lỗi thì hay đùn đẩy, đổ thừa. Được khen thì mặt mày hớn hở, còn bị chê, bị la thì mặt bí xị. Đặc biệt là rất khó nói lời xin lỗi với người bằng tuổi hoặc nhỏ hơn mình…
      Vậy nên, “BỊ THẤY BIẾT” SI MÊ LÀ BẢN TÍNH MẶC ĐỊNH nơi tâm thức con người ngay từ khi mới sinh ra, bất cứ ai cũng đều như vậy - vấn đề là ta có nhận ra nó hay không mà thôi.
      * NGUYÊN NHÂN GÂY RA KHỔ ĐAU NƠI TÂM THỨC CON NGƯỜI
      Bởi vì bản chất tâm thức ta là “bị thấy biết” si mê luôn hướng về phía đối thể, nên ta tương tác với đối thể nào, LIỀN GẮN CHẶT (BÁM CHẤP) tâm ý thức ta vào đối thể ấy. Từ cái gốc “bị thấy biết”, tâm thức ta bắt đầu tạo ra những nhánh cây là tâm bám víu, tâm sở hữu, tâm tham đắm, tâm nhiễm ô, tâm chấp giữ...
      Vì BÁM VÍU mà tạo nên tâm ý thức sợ hãi, sợ mất những gì ta đang bám víu. Vì SỞ HỮU mà tạo nên tâm ý thức tranh đấu, hơn thua... để chứng tỏ quyền lợi nơi đối thể sở hữu ấy. Vì THAM ĐẮM vào đối thể mà sinh tâm ý thức tính toán thiệt hơn để được lợi mình, hại người... Vì NHIỄM Ô, CHẤP GIỮ vào đối thể mà sinh tâm ý thức suy lường từ ta ra người, sinh tâm phân biệt ta đúng người sai, ta đẹp người xấu, ta giỏi người dở…
      Theo thời gian, các Ý Niệm đối thể cứ SINH SÔI theo nhân duyên tương tác hàng ngày. Chúng luôn hướng về đối thể mà tách ra khỏi thân ta, huân tập thành TẬP KHÍ Ý THỨC ĐỐI THỂ SÂU DÀY (tập khí nghiệp), bao quanh Linh Thức ta. Chúng tạo thành lớp màn ngăn che, khiến ta không thể nhận được ánh sáng bản thể minh tường, sáng suốt nơi Linh Thức. Ta bị chúng làm cho mê mờ, u tối, luôn bị đối thể dẫn dắt sinh tạo Ý Thức Đối Thể; nên không thể làm chủ cảm xúc, suy nghĩ, hành động nơi cuộc sống chính ta. Từ đó khiến ta muốn một đường lại gieo nhân một nẻo: muốn tốt lại gieo nhân xấu, muốn lợi lại gieo nhân hại, muốn đúng lại gieo nhân sai. Nên quả theo nhân trổ luôn NGƯỢC lại ý muốn nơi ta, làm ta cảm thấy luẩn quẩn, khổ sở, bế tắc, không lối thoát…

      Xóa
    3. Bởi vì là tập khí huân tập sâu dày, tạo thành THÓI QUEN, TÍNH CÁCH và dẫn dắt ta luôn hướng về đối thể mà sinh tạo Ý Thức Đối Thể, để rồi ý niệm này làm duyên cho ý niệm kia sinh tạo, tiếp nối nhau lớp lớp trùng trùng theo đối thể xoay vần như ngày và đêm. Y như lớp sóng này diệt liền lớp khác tiếp nối, chẳng biết được đâu là đầu, đâu là cuối. Cho nên cứ khổ đau này nối tiếp khổ đau kia, không có hồi kết, khiến cuộc đời ta luôn bơi trong bể khổ…
      Ví như ta là người tạo ra tài sản (tài sản là đối thể nơi tâm thức chính ta), ta tất nhiên liền GẮN CHẶT tâm thức ta vào đối thể mà sinh ra tâm tham muốn gia tăng tài sản; bám víu, sở hữu tài sản, sợ mất tài sản.... Như vậy khi ta sinh tạo ý thức dán vào đối thể, các tâm thức bám víu, sở hữu, sợ hãi, đắm nhiễm, tham muốn… tự động cũng sinh tạo theo.
      Theo quy luật tự nhiên nơi Tâm Ý Thức Đối Thể, ta bám chấp vào cái gì, liền gieo nhân xa lìa cái ấy. Bổn nguyên liền vận hành nhân quả nhất như theo Tâm Ý Thức Đối Thể ấy mà trổ quả ngược lại, làm cho mất hay tan hoại thứ ấy – cốt để giải thoát Ý Thức Đối Thể quy về bổn nguyên mà thăng hoa, chuyển hóa thành hiểu biết mới, giúp ta mở mang trí tuệ. Đó cũng chính là tiến trình “sinh trụ dị diệt” nơi Tâm Ý Thức Đối Thể hiện hữu nơi cảnh sống con người.
      Cho nên, theo quy luật sinh diệt tự nhiên ấy, bổn nguyên vận hành việc bất như ý đến làm cho tài sản bấy lâu ta tạo dựng mất đi để các tâm ý thức đối thể cũng theo đó mà diệt. Nhưng ta lại không biết hoặc không thể chấp nhận được quy luật sinh diệt vô thường này, để rồi tiếp tục sinh Ý Thức Đối Thể sân giận, bực tức, đau đớn, sợ hãi, quẫn trí…mà đau khổ khi có người làm hư hao, thiệt hại tài sản.
      Rõ ràng rằng, ta MUỐN kiếm nhiều tiền để cuộc sống dư dả, tốt đẹp, hạnh phúc, nhưng thực tế thì khi có nhiều tiền rồi thì tâm hồn cũng chẳng thể bình yên, an lành, hạnh phúc như ý muốn; đến khi tài sản mất đi thì lại càng đau khổ – đó chính là muốn một đường lại gieo nhân một nẻo, khiến quả theo nhân trổ luôn ngược ý muốn chính ta. Và ta luôn bị tập khí nghiệp Ý Thức Đối Thể dẫn dắt, khiến ta cứ xoay vần trong vòng xoáy tính toán, lo âu, sợ hãi không bao giờ dứt.

      Xóa
    4. Tôi lấy một ví dụ khác, khi ta thương yêu một ai đó liền GẮN CHẶT tâm ta vào người mình yêu thương, muốn họ là sở hữu của riêng mình mà sinh tâm sợ mất, sợ họ rời xa mình. Để rồi khi thấy họ làm trái ý mình, liền oán trách, hờn giận, hay ghen tuông mà phát sinh hành động chửi mắng, hay đánh đập, hành hạ, thậm chỉ là giết chết họ... Rõ ràng là ta đã bị tập khí nghiệp Ý Thức Đối Thể dẫn dắt, khiến ta vì yêu thương họ, muốn họ mãi ở bên ta, nhưng ta lại gieo nhân chỉ trích, chửi rủa, đánh đập, hành hung... là nhân NGƯỢC lại tình yêu thương ấy.
      Nguyên nhân gốc rễ, chẳng phải bởi bản chất tâm thức con người là “bị thấy biết” si mê đó sao? Bởi ta luôn thấy người mình yêu thương bằng Tâm Ý Thức Đối Thể chính mình, mà tạo nên lời nói, hành động NGƯỢC với ý muốn chính ta, muốn một đường lại gieo nhân một nẻo.
      Để rồi theo quy luật tự nhiên, bổn nguyên vận hành quả theo nhân trổ, khiến ta và người ta yêu phải xa cách, chia lìa nhau về tâm hồn lẫn thể xác, cốt cũng chỉ để giải thoát cái tâm bám víu, sở hữu mà ta sinh tạo. Ta lại không chấp nhận được sự vận hành ấy, trong khi trả quả, ta lại gieo thêm nhân: tiếp tục bám víu vào đối thể đã mất đi ấy mà sinh ra sự khổ đau, buồn bã, bế tắc, héo hon thân xác... Toàn là tự ta sinh ra Tâm Ý Thức Đối Thể mà hại mình, xoay vòng trong vòng xoáy trong nhân có quả, trong quả có nhân... không có lối thoát.
      Vậy nên, mọi sự khổ đau, bế tắc trong cuộc đời ta, đều là do gốc rễ bản chất tâm thức con người là “BỊ THẤY BIẾT” si mê, khiến ta luôn bị tập khí nghiệp Tâm Ý Thức Đối Thể dẫn dắt, làm ta luôn chạy theo để thấy đối thể, mà chẳng thể rõ thấu bản chất tâm ý thức chính ta sinh tạo (bám víu, sở hữu, nhiễm ô, chấp nhặt…) Cho nên, ta cần QUAY VỀ CHÍNH MÌNH MÀ TƯ DUY, PHẢN TỈNH, để rõ thấu gốc rễ sinh khổ đau, GIẢI THOÁT tập khí huân tập khổ đau để chặt đứt vòng xoáy luân hồi, CHUYỂN HÓA THÀNH TUỆ GIÁC tỏ thấu bản chất muôn pháp, cũng chính là tỏ đạo.

      Xóa
    5. Ý NGHĨA GIÁO DỤC TỪ NHÂN QUẢ BẤT NHƯ Ý
      Ở Bài 31, chúng ta đã biết rằng, những gì đến với ta đều theo vòng xoay nhân duyên quả vận hành, để ta thường tư duy phản tỉnh mà tỏ thấu đối thể cái biết là điều ta chưa biết. Từ đó, ta mới giải quyết mọi vấn đề ở nhân duyên ấy một cách minh tường, rốt ráo. Đó cũng chính là bổn nguyên vận hành nhân quả nhất như nơi đối thể tâm thức con người, nhằm giúp con người xã ly tâm bám chấp, sở hữu, ái nhiễm... – các tâm ấy chính là nguyên nhân sinh tạo nên tâm thức bế tắc, khổ đau, bất an, sợ hãi… Cho nên mọi VIỆC BẤT NHƯ Ý ĐỀU LÀ LUẬT NHÂN QUẢ do bổn nguyên vận hành, đưa pháp đối thể đến để TRIỆT TIÊU Tâm Ý Thức Đối Thể chính ta. Vấn đề là ta có đủ duyên, đủ phước đức và trí tuệ để NHẬN RA GIÁ TRỊ ẤY hay không mà thôi. Ta nhận ra thì xem mọi việc là bài học ý nghĩa và tốt nghiệp, ta không nhận ra thì cứ mãi xoay vần trong vòng xoáy luân hồi khổ đau.
      Ví như nhờ có BỆNH TẬT, ta mới nhận ra cơ thể ta đang bị tổn thương, nên ta cần biết QUÝ TRỌNG những giây phút bên người thân, biết quý trọng thời gian mà NỖ LỰC TRAU DỒI đời sống tráng kiện tinh thần. Bởi tinh thần có mạnh mẽ, sảng khoái mới phát triển trí tuệ mà thông suốt nhiều việc, để hoàn thành những hoài bão và mơ ước nơi ta và người.
      Hay nhờ có sự BẤT ĐỒNG Ý KIẾN dẫn đến việc cãi cọ, bất hòa nơi đối thể, ta mới nhận ra mình cần LẮNG NGHE và TÌM HIỂU KỸ nguyên nhân mấu chốt gây ra sự bất đồng ý kiến ấy, để ta giải quyết nó nơi trí tuệ tỏ thấu chỗ mắc kẹt giữa ta và người. Để ta và người xít lại gần nhau hơn.
      Nhờ có con HỌC DỐT, bị điểm kém bị cô giáo trách phạt, ta mới nhận ra mình cần dành thời gian QUAN TÂM đến việc học của con, TÌM HIỂU xem vì sao mà con học kém để tìm phương pháp thích hợp hướng dẫn con học tốt hơn. Đó là ta cùng học với con để HIỂU VỀ CON, mà GIÚP ĐỠ CON về tâm sinh lý trên bước đường phát triển, trưởng thành nơi con.
      Nhờ có người tới KHINH BỈ, CHỬI RỦA TA, ta tư duy phản tỉnh mới nhận ra: họ là đối thể nơi tâm thức ta - luôn bất như ý với ta - mà sinh ra khinh bỉ chửi rủa, để GIẢI THOÁT ĐỐI THỂ và họ chửi rủa vậy cũng là để ta có ĐỘNG LỰC PHẤN ĐẤU, CỐ GẮNG VƯƠN LÊN. Hiểu rõ vậy là ta luôn sống như ý mà thành tựu như ý chính ta.

      Xóa
    6. Ví như sự GHEN TUÔNG, GIẬN HỜN nơi vợ chồng đến để nhắc nhở ta cần dành thời gian QUAN TÂM đến tâm tư người phối ngẫu cùng mình, giúp họ HIỂU RÕ những việc mình đang làm, mà tháo gỡ những khuất tất. Và khi ta có những hành động sai trái ngoại tình làm tổn thương đến tình cảm vợ chồng, chính sự ghen tuông, giận hờn nơi đối thể giúp ta suy nghĩ về mối quan hệ không chính thống ấy. Để ta TƯ DUY mà biết hậu quả xảy ra khi việc ngoại tình bị phát hiện: tình cảm vợ chồng sẽ tan hoang, đối phương sẽ đau khổ biết bao, và cả người mà ta ngoại tình cũng sẽ đau khổ; con cái ta sẽ chịu thiệt thòi khi gia đình tan vỡ. Gia đình mà ta đã bỏ công sức vun bồi xây đắp sẽ bị bóp nát trong sự đam mê phút chốc của dục vọng nơi ta. Ta đánh đổi hạnh phúc mà ta vun đắp cả đời, để lấy những phút giây hoan lạc vụn trộm với kẻ thứ ba, liệu có đáng không?
      Khi ta luôn tư duy phản tỉnh mọi hành động, lời nói mà đối thể đem đến cho ta, sẽ khiến ta là người SỐNG CÓ TRÁCH NHIÊM, CÓ ĐẠO ĐỨC với gia đình và những người xung quanh, để ta có những lời nói và ứng xử phù hợp giúp người hiểu về ta. Khi đó, ta sẽ không tạo nên sự ân hận và nuối tiếc về những hành động sai lầm nơi ta trong quá khứ đối với những người ta gặp trong nhân duyên.
      Lại nữa, nhờ có nhân quả mà ta nhận thức được là bấy lâu nay tâm thức ta luôn sống mà hướng về đối thể, để rồi bị tập khí nghiệp dẫn dắt mà gieo nhân ngược lại ý muốn nơi ta. Khi đó, ta sẽ DỪNG VIỆC CHĂM CHĂM HƯỚNG VỀ ĐỐI THỂ. Ta sẽ CHẲNG CẦN QUAN TÂM là người ta thương yêu, đối xử với ta ra sao, cũng CHẲNG CẦN MONG CẦU họ ban phát tình thương đến cho ta, hay thuận theo ý ta, cũng CHẲNG CÒN OÁN TRÁCH, GIẬN HỜN, TỦI THÂN khi người làm trái ý… Tâm thức ta ngừng bám chặt vào đối thể, chính là ta đã DỪNG GIEO NHÂN ĐỐI LẬP ngược lại với ý muốn chính ta. Khi ấy, ta chỉ cần QUAY VỀ CHÍNH MÌNH, chỉ cần quan tâm đến việc TA ĐỐI XỬ VỚI NGƯỜI THẾ NÀO, ta làm mọi việc bằng sự TOÀN TÂM TOÀN Ý, TA VUN BỒI, CHĂM LO cái nhân bồ đề mà ta đang gieo, chẳng cần mong cầu, so đo, tính toán... Đó là TA QUYẾT ĐỊNH GIEO NHÂN TỈNH THỨC - luôn biết rõ nhân gieo tạo, mà thấu tỏ quả trổ luôn như ý chính ta.

      Xóa
    7. Ví như nhờ có người lừa đảo, làm điều có lỗi với ta để ta cảm nhận được sự tức giận, buồn rầu, đau khổ... thì ta mới biết được cảm giác ấy mà thấu hiểu được đối thể. Ta rõ thấu vậy thì sau này ta sẽ không lừa đảo, làm điều sai trái, có lỗi với người khác - cũng chính là ta dừng gieo nhân lừa đảo, làm điều sai trái, có lỗi với bổn tâm chính ta. Khi ta luôn trưởng dưởng, vun bồi, tưới tẩm hạt giống thiện lành nơi ta, quả thiện lành tất nhiên sẽ trổ, để đối thể khi xưa cũng được hưởng quả ấy mà thay đổi thành người thiện lương theo ý ta. Đó là cách ta luôn làm lợi ích cho người bằng sự gieo nhân trưởng dưỡng cái tâm thiện lành, bằng việc rõ thấu đối thể nơi tâm ý thức chính ta.
      Ví như ta biết bám chấp vào đối thể là bản chất nơi “bị thấy biết” con người, và bám chấp ấy sẽ chẳng thể tồn tại nơi thấy biết tỏ thấu đối thể nơi tâm ý thức chính ta. Do vậy, để giải thoát tâm thức bám chấp đối thể, ta luôn cùng với đối thể là chồng, vợ, con cái, cha mẹ, anh em, bằng hữu, đồng nghiệp... mà ĐẶT TA VÀO VỊ TRÍ HỌ ĐỂ THẤU HIỂU mọi tâm tư, suy nghĩ, hành động, việc làm nơi họ và cùng họ giải quyết mọi vấn đề nảy sinh trong cuộc sống giữa ta và họ. Lúc ấy, họ và ta đều CÙNG CHUNG MỘT Ý NGHĨ nơi sự thấu hiểu nhau, hòa cùng nhịp điệu với nhau - chẳng tạo nên đối thể để bám chấp, sở hữu nhau mà gieo nhân quả nhầm lẫn: muốn luôn bên nhau, yêu thương nhau lại gieo nhân hiểu sai về nhau để rồi ghét nhau mà xa lìa, rời xa nhau.
      Cho nên, bổn nguyên luôn vận hành đối thể đến tương tác thông qua nhân duyên quả của mỗi người, để nhân sinh VỪA GIẢI QUYẾT QUẢ TRỔ từ những nhân mình đã gieo trong quá khứ, VỪA NHẬN ĐƯỢC NHỮNG BÀI HỌC hiểu biết cách thức làm người trí tuệ. Chỉ khi ta luôn TỎ THẤU TÂM THỨC CHÍNH TA, ta mới nhận ra rằng bổn nguyên luôn thường hằng bảo ban, dạy dỗ ta. Khi hiểu tất cả những ý nghĩa ấy, ta sẽ thấu tỏ rằng nhân quả, cũng như việc bất như ý hoàn toàn MANG GIÁ TRỊ TO LỚN VỀ GIÁO DỤC và không hề có tốt xấu. Vậy nên, ta luôn đón nhận việc bất như ý với tâm thế CỞI MỞ, TÍCH CỰC, SẴN SÀNG HỌC HỎI. Khi ấy chúng ta sẽ luôn nhận ra bài học cho chính mình, giống như việc tôi luôn nhận ra bài học mới mẻ mà bổn nguyên dạy cho chính tôi và gia đình mình hàng ngày.

      Xóa
    8. Khi ta giải thoát được dính mắc ở một vấn đề, tất yếu ta sẽ có kinh nghiệm để xử lý vấn đề tương tự. Rồi lại tiếp tục tư duy để giải thoát tâm mình ở vấn đề mới hơn… Cứ như vậy, những bài học bổn nguyên đưa đến cho ta LUÔN MỚI, và tâm thức ta trưởng thành từng ngày, trí tuệ ta ngày càng mở mang, để ta luôn tiến lên phía trước mà cùng tiến hóa với vũ trụ càn khôn, thoát cảnh luân hồi chỉ để học lại cái biết nơi bài học ấy.
      🌼🌼 THỰC HÀNH TƯ DUY PHẢN TỈNH CHÍNH MÌNH
      Ta đã biết rằng, Tâm Ý Thức Đối Thể liên tục sinh tạo làm duyên cho nhau mà sinh diệt, diệt sinh, tiếp nối xoay vần như ngày và đêm - y như sóng biển, lớp sóng này diệt liền có lớp khác sinh ra mà tạo thành sự khép kín, chẳng biết được đâu là đầu, đâu là cuối. Và sự đau khổ sinh tạo từ tâm ấy cũng là bất tận. Chỉ khi nào ta DỪNG tâm muốn thấy biết đối thể, mới THOÁT KHỎI “bị thấy biết” mà phá vỡ vòng vây sinh diệt khép kín nơi tâm thức. Khi đó, ta mới thấu tỏ được gốc rễ sinh nên tâm ý thức là MUỐN thấy biết liền “BỊ THẤY BIẾT” mà tạo nên Tâm Ý Thức Đối Thể chính ta.
      Vì vậy, ta thường xuyên THỰC HÀNH TƯ DUY PHẢN TỈNH, để thời thời khắc khắc ta luôn rõ thấu bổn tâm ta nơi đối thể mà thoát khỏi “bị thấy biết”, lúc ấy ta mới thật biết những gì diễn ra xung quanh ta mà an nhiên, tự tại. Mỗi người có mỗi cách thực hành tư duy khác nhau, dưới đây là cách mà tôi hay áp dụng trong đời sống thường ngày.

      Xóa
    9. * CHẤP NHẬN SI MÊ
      Đã là bản chất tất yếu thì ta không thể chối bỏ si mê nơi “bị thấy biết” hiển bày cuộc sống con người. Ta BIẾT ta là kẻ si mê, và đối thể đến để giúp ta phản tỉnh NHẬN DIỆN ra sự si mê ấy, mà GIẢI THOÁT si mê – đó là ta luôn sống trong TỈNH THỨC mà học những thấy biết chân thật bổn nguyên. Chỉ khi chấp nhận mình là kẻ si mê, ta mới DỪNG tâm hơn thua tranh giành đúng sai, giỏi dở, cao thấp... cùng người. Lúc đó ta mới có định lực để tư duy tỏ thấu giá trị bài học đối thể đến dạy ta, giúp ta nhận diện ra tâm thức si mê chính ta mà phát triển trí tuệ. Ngoài ra, bản chất tâm thức con người là bám víu, sinh ra cảm xúc hỷ, nộ, ái, ố. Vì vậy, SỐNG CHÂN THẬT VỚI CẢM XÚC là cách để ta chấp nhận bản chất si mê chính mình. Khi ta CHÂN THẬT HIỂN BÀY cảm xúc, cũng chính là sống thật với con người mình, mọi trạng thái cảm xúc sẽ thăng hoa mà không bị đè ép, dồn nén để dẫn đến tích lũy mà đi vào bế tắc.

      Xóa
    10. * NHẬN DIỆN CẢM XÚC, TÂM Ý THỨC CHÍNH TA
      Khi chuyện bất như ý xảy ra, ta cần đối mặt NHẬN DIỆN cảm xúc và Tâm Ý Thức Đối Thể chính ta đang sinh tạo, bằng câu hỏi truy tìm nguyên nhân: TẠI SAO TA BUỒN? TẠI SAO TA GIẬN? NGUYÊN NHÂN GỐC RỄ VÌ SAO TA PHẢN ỨNG NHƯ VẬY?
      Khi ta nhận diện ra tâm ý thức chính mình, ta sẽ không bị đối thể dẫn dắt, ngược lại, ta sẽ dần có định lực mà điều khiển và kiểm soát, làm chủ bản thân mình.
      Ví như khi tôi bắt đầu tức giận với ai đó, thì tôi biết mình cần GIỮ IM LẶNG. Bởi tôi hiểu rằng lúc này tôi đang sống chân thật với cảm xúc chính mình. Từ sự im lặng ấy, mọi tâm tư, suy nghĩ nơi tôi lắng đọng và tôi dần NHẬN DIỆN được các trạng thái cảm xúc và các Ý Thức Đối Thể liên tục sinh ra trong đầu mình. Giống như mọi cáu bẩn sẽ hiện rõ nơi mặt nước tĩnh lặng, trong suốt, và cuối cùng tôi cũng đã nhìn thấu được nguyên nhân gây tạo sự bực tức, giận dữ mà giải quyết nó. Khi tôi không còn bực tức, tôi mới giải quyết mọi vấn đề sinh ra nơi tôi và người một cách thấu tình đạt lý và rốt ráo.
      * TƯ DUY PHẢN TỈNH RÚT RA BÀI HỌC VÀ ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG
      Sau khi nhận diện, ta tiếp tục dành thời gian tư duy tỏ thấu vấn đề, ĐƯA RA NHỮNG LÝ LẼ để GIẢI THOÁT NHỮNG TRÓI BUỘC VÌ BÁM CHẤP vào đối thể. Đồng thời, tư duy xem bổn nguyên đưa đối thể ấy đến để DẠY CHO TA BÀI HỌC GÌ, mà phát triển trí tuệ cho bản thân.

      Xóa
    11. Sau khi tư duy phản tỉnh để rút ra bài học, chuyển hóa thành trí tuệ xong, thì điều quan trọng nhất là ta cần ÁP DỤNG NHỮNG THẤY BIẾT ĐÃ ĐÚC KẾT ẤY VÀO ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN chính ta. Ý nghĩ luôn đi đôi với thực hành, thực hiện đúng những gì bổn nguyên thông qua đối thể dạy cho ta, thì mới thật sống được TRỌN VẸN Ý NGHĨA BÀI HỌC bổn nguyên mang lại.
      Tôi kể một câu chuyện làm ví dụ. Một lần nọ, tôi đi Đà Lạt và có ghé vào chợ để mua dâu. Con gái tôi có dặn mẹ mua dâu về để làm kem, trong lúc vội vã tôi đã mua một hộp, và bà bán dâu cứ luôn miệng nói dâu ngon đảm bảo. Khi mang về nhà thì phát hiện trong hộp dâu bị hư rất nhiều, đã vậy ở chính giữa lại độn thêm một lớp giấy cứng. Khi phát hiện ra điều ấy, Linh Thức tôi NHẬN DIỆN được các chúng sinh (là Tâm Ý Thức Đối Thể) trong người mình đang “sôi máu” lên: cảm thấy THẤT VỌNG vì mua mắc mà dâu lại không tươi như ý, cảm thấy rất BỰC bà bán dâu đã lừa dối mình, và bắt đầu SUY DIỄN chắc bả hả hê lắm khi lừa được mình… Tất cả những trạng thái cảm xúc, ý niệm ấy liên tục được tuôn ra. Tôi biết thế và cứ GIỮ IM LẶNG cho chúng sinh TỰ DO HIỂN BÀY cảm xúc chân thật, Linh Thức tôi chỉ là người quan sát.
      Một lúc sau chúng sinh có vẻ đã thỏa mãn sự bực tức, tôi tư duy xem vì sao mình lại sinh ra những ý niệm ấy. Và tôi nhận ra: à, đó là vì tôi MUỐN mua đồ tốt nhưng thực tế là gặp phải dâu không ngon, và bực tức vì có cảm giác bị người ta lừa. Tức là gặp việc bất như ý, và việc tôi bực tức như vậy là điều tất nhiên.
      Tôi bắt đầu dành thời gian tĩnh lặng để nói chuyện với các chúng sinh đang sân giận trong thân mình: “Các con nghĩ xem, chẳng phải chợ hôm qua vắng hoe, ai cũng đều đến năn nỉ ta mua hàng và than rằng dạo này ít khách du lịch, ế ẩm quá. Vậy nên chuyện dâu để lâu bán không được và bị hư là điều tất nhiên, đúng không? Và nếu con là người bán, con sẽ cảm thấy thế nào khi đang rầu rĩ vì bán ế, tự nhiên có khách đến mua, có phải là rất mừng không? Vậy là đồng tiền của chúng ta đã được chuyển hóa, mang lại niềm vui, mang lại sự may mắn cho người khác rồi, chẳng phải đồng tiền ấy rất ý nghĩa hay sao? Còn chuyện bà bán dâu có lừa mình hay không, thì chỉ có bà ấy biết, và bổn nguyên sẽ vận hành nhân quả để bà ấy trải nghiệm mà rút ra bài học. Nên ta cũng CHẲNG CẦN PHẢI BẬN TÂM nghĩ về bà ấy nữa, chỉ cần BIẾT TÂM Ý CHÍNH TA, BIẾT THÔNG CẢM VÀ HIỂU CHO NGƯỜI, là ta luôn an vui, đó là cái giá trị mà chỉ có kiếp làm người ta mới thật thấu biết nó. Vả lại, chẳng phải mục đích mua dâu lúc đầu của chúng ta là để cùng con bé làm kem, nhiêu đây có thể làm được 2-3 mẻ kem, vậy là ta đã đạt được mục đích rồi!

      Xóa
    12. Lỗi này không phải là của người bán, mà là lỗi do ta vội vã, không kiểm tra cẩn thận. Cho nên chúng ta rút kinh nghiệm lần sau làm tốt hơn nhé.”
      Sau khi nghe tôi giải thích xong, tôi nhắm mắt lại và thấy chúng sinh trong đầu mình chuyển hóa từ khí đen thành khí trắng và bốc lên nghi ngút. Tuy những chúng sinh ấy vẫn còn chút bực tức, nhưng đến khi tôi và hai đứa nhỏ cùng nhau xay dâu để làm kem, lũ trẻ đã cười nói vui vẻ thích thú. Đây chẳng phải là đã thỏa mãn mục đích mua dâu hay sao, thế là tất cả sự bực dọc đã hoàn toàn tan biến! Và chắc chắn, lần sau tôi sẽ cẩn thận hơn để người khác không có cơ hội lừa mình mà tạo nghiệp cho bản thân nữa.
      🌼🌸☘️Chân lý nhân quả nhất như, nhân gieo sao ắt trổ quả tương xứng, ta luôn TIN SÂU VÀO NHÂN QUẢ thì sẽ chẳng cần bận tâm đến việc đối thể đến làm việc bất như ý với mình. Chỉ cần ta luôn quay về chính mình, vun bồi cái nhân bồ đề, chăm lo tưới tẩm vun trồng, thì khi hội đủ duyên hạt sẽ tự động nảy thành cây rồi đơm hoa kết trái.
      Vạn pháp do tâm sinh, cảnh đều do tâm diễn. Ta sống chân thật với cảm xúc và thường hằng tư duy rõ thấu tâm ý thức đối thể chính ta, dần dần sẽ có đủ định lực và trí tuệ mà giải thoát mọi khổ đau, vướng mắc để tâm ta luôn bình an, tự tại. Nghĩa là ta đã làm chủ mọi cảnh, làm chủ vạn pháp, làm chủ chính cuộc đời mình. Khi đó, ta cũng chính là VỊ THẦY DẪN DẮT chúng sinh nơi tâm thức chính mình, và những người trong nhân duyên chính ta - để tất cả cùng nhau thăng hoa, hòa nhịp cùng tiến trình tiến hóa nơi vũ trụ càn khôn. Hành trình quay về chính mình để nhận diện, hợp nhất Tâm Ý Thức Đối Thể, chính là Hành Trình Tâm Ý Thức Trở Về Bổn Nguyên - đó cũng chính là ý nghĩa đích thực của một kiếp người sống nơi thế gian này.

      Xóa
    13. Câu chuyện trái dâu không sai.
      Nhưng đây là những chia sẻ từ cô QD à?
      Dù thấy lạ nhưng những lý lẽ trên không phải không hợp lý. Như đọc đoạn má của má chồng là mình, rồi cháu là ông nội ông ngoại, rồi con chó là ba của ba bạn tui... Là k quá khó hiểu, có thể khó tin nhưng nó vẫn cứ là như vậy. Quan trọng cách để mình hiểu được rằng không nên phân biệt tình cảm mọi người.

      Bài dài thật, như đọc cả cuốn sách.

      Những cmt là của cô QD ah?

      Xóa
    14. Theo mình thấy những cm không phải cử cô QD

      Xóa
    15. Những bình luận đó là phần tiếp theo của bài đăng. Do laptop có vấn đề nên bài không đăng được nữa vì vậy tui phải đăng tiếp trong phần bình luận. Vẫn chưa đăng hết cho nên ai muốn đọc tiếp thì nên vào FB của tác giả để đọc cho đến hết. Tui bị bệnh lười rồi hihi

      Xóa