Tin nhân quả làm
chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức
được và sống theo nhân quả. Và mọi lộn xộn, thậm chí hỗn loạn của đời sống một
cá nhân hay của xã hội đều là do thiếu nhận thức về nhân quả và không sống theo
nhân quả.
1. Chủ động, tích cực,
tự tin.
Cuộc đời chúng ta
hiện tại là sự biểu lộ ra thành quả của những nhân tốt xấu trong quá khứ, thế
nên muốn tiến bộ, muốn tương lai tốt đẹp thì ngay trong hiện tại chúng ta phải
gieo trồng những nhân tốt. Chúng ta không thể đổ lỗi, đổ thừa cho hoàn cảnh,
cho thần thánh, cho người khác. Anh đã gieo thì anh phải gặt. Và anh muốn gặt
thứ gì thì hãy gieo thứ ấy. Sự lạc quan, yêu quý đời sống, quý trọng thời gian
là do tin và sống theo nhân quả. Tương lai không phải là mơ ước viển vông,
tương lai nằm trong những việc làm (hành động tốt xấu, nghĩa là nghiệp tốt xấu)
ngay trong giây phút này của tôi.
Tin nhân quả làm
chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức
được và sống theo nhân quả. Và mọi lộn xộn, thậm chí hỗn loạn của đời sống một
cá nhân hay của xã hội đều là do thiếu nhận thức về nhân quả và không sống theo
nhân quả.
2. Tự do và bình đẳng.
Với định luật nhân
quả, tôi bình đẳng với mọi chúng sanh trong sự thăng tiến của tôi. Đó là sự
bình đẳng tuyệt đối: không ai ăn gian, hối lộ, làm đồ giả, nịnh nọt, bợ đỡ đối
với nhân quả được. Nhân quả khiến tôi bình đẳng trước mọi cơ hội để tiến bộ, cả
vật chất lẫn tinh thần. Nhân quả làm tôi trở thành nhà điêu khắc, kiến trúc sư
cho cuộc đời tôi và là người kế thừa duy nhất mọi hành động tốt xấu của tôi.
Đây là sự tự do tôi có được. Tự do lựa chọn, tự do hành động và tự do xây dựng
cuộc đời tôi.
Nếu tôi nhận ra mọi
sự trong cuộc đời này đều có thể chuyển hóa thành một nhân tốt cho tôi, thì tự
do của tôi là ở khắp tất cả, quyền lực của tôi ở khắp tất cả. Đó là sự lạc quan,
niềm vui hướng thượng của người tin nhân quả. Một thí dụ: thấy một cục đá trên
đường đi có thể làm ngã té, tôi liệng nó vào lề. Như thế là chỉ một cục đá tầm
thường tôi đã chuyển hóa thành một nhân tốt cho hệ thống nhân quả- tức là cuộc
đời- của tôi.
3. Không lo sợ.
" Không có điều
gì có thể xảy ra với mình, nếu nơi mình không có điều đó". Đây là một phát
ngôn khôn ngoan của Phật giáo. Không có quả nào có thể xảy ra với tôi, nếu tôi
không có nhân quả đó. Người Phật tử sống cuộc đời không lo sợ như vậy. Còn nếu
nó (quả xấu ấy) xảy ra thì sao? Thì hãy ráng chịu đựng, nhẫn nhục bởi vì mình
đã có nhân cho quả ấy và nay nhân đang trổ thành quả. Đầu ra tệ thế này bởi vì
đầu vô đã từng bết lắm. Trách ai nữa, ngòai mình? Và hãy rút kinh nghiệm, nếu muốn
không gặp điều đó nữa thì chớ gieo nhân về điều đó nữa.
4. Nhân quả đem đến
ràng buộc nhưng nhân quả cũng đem đến giải thoát.
Mười hai duyên
sanh, từ vô minh cho đến lão tử là tiến trình nhân quả. Mười hai duyên sanh ấy
là sợi dây xích mười hai khoen trói buộc chúng ta những đời sau nữa. Chúng ta
cũng biết khi phá bỏ, chặt đứt được trọn vẹn một khoen thì toàn bộ sợi dây sẽ đứt. Vì
trong một khoen đã chứa đựng hình thể và năng lực của những khoen trước và tác
động trực tiếp đến những khoen sau.
Theo Phật giáo, mười
hai duyên sanh hay mười hai khoen nhân quả ấy có thể chặt đứt bằng trí huệ soi
chiếu thấy sự không có tự tánh của tất cả các pháp. Như thế chúng ta có thể
siêu vượt giải thoát khỏi tiến trình nhân quả.
Nhân quả là sự thật
tương đối. Không nhân quả là sự thật tuyệt đối' vượt khỏi nhân quả' là tiến
trình giải thoát.
5. Lòng bi.
Ai cũng có lòng bi
tự nhiên. Có lẽ lòng bi là một đặc điểm phân biệt con người với những sinh vật
khác. Chắc hẳn lòng bi càng lớn thì cuộc đời chúng ta càng phát triển, càng được
nâng cao, càng có giá trị, bởi vì lòng bi là sự rộng lớn của tâm. Ai cũng có
lòng bi, lòng thương cảm khi thấy người khác đang bị đè chìm dưới gánh nặng
nghiệp quả của họ. Cũng chính nhân quả làm cho lòng bi thêm sâu sắc, hiệu quả.
Vì chúng ta không chỉ nhìn thấy hiện tượng đã trổ thành quả bên ngoài, mà chúng
ta còn tìm hiểu để nhìn thấy và đoạn trừ, chuyển hóa những nhân đã tạo ra quả
hiện tại của một người hay một tập thể. Chẳng hạn, thấy một người không có bữa
ăn, chúng ta cho họ tiền, nhưng rồi y chỉ uống rượu, gây thêm những hậu quả tai
hại thì sao? Sự giúp đỡ đích thực là cắt đứt, chuyển hóa nguyên nhân gây ra hậu
quả này. Sự giúp đỡ đích thực phải dựa trên nhân quả. Chúng ta thấy Bốn Chân Lý
Cao (Tứ Diệu Đế) cả dựa trên nhân quả. Có hiện tượng khổ, đâu là những nguyên nhân sâu hơn của
khổ, hạnh phúc khi thoát khổ là thế nào, và những phương pháp đường lối để giải
quyết được vấn nạn này. Thương xót không phải là thương xót lai rai, qua loa,
cho đúng phép. Thương xót thật sự là thấy được khổ nơi người khác và chuyển hóa
những nguyên nhân của khổ nơi người khác. Chúng ta thường hào hứng với những cuộc
đổi đời, những cuộc cách mạng. Nhưng cuộc cách mạng đích thực, sâu sắc và hiệu
quả bền vững là thay đổi, chuyển hóa hệ thống nhân quả của một người hay một tập
thể. Không có cuộc cách mạng nào thực sự hơn, lớn lao hơn và hiệu quả bền vững
hơn sự sửa đổi hệ thống nhân quả của một người. Giúp đỡ đích thực là giúp đỡ
người khác chuyển hóa hệ thống nhân quả đang vận hành của họ.
Kết luận
Không thể nói hết về
nhân quả vì nhân quả là tất cả đời sống trước mắt, quá khứ và tương lai. Học hỏi
nơi đời sống là học hỏi nhân quả nơi đời sống. Sống là tác động lên hệ thống
nhân quả của cá nhân và xã hội theo chiều hướng tốt hơn, đúng hơn, đẹp hơn.
st
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét