Như quý vị đã biết,
nhà Phật chỉ cho chúng ta thấy biết rõ ràng tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên
cuộc đời này đều phải trải qua tiến trình của nhân duyên quả. Người Phật tử
chân chính phải học hỏi, tìm hiểu giáo lý cho kỹ càng, thấu đáu, sau khi có trải
nghiệm và ứng dụng lợi lạc trong cuộc sống bằng cách tin sâu nhân quả.
Nếu chúng ta thực
tâm tu hành theo lời Phật dạy, thì mọi nghiệp xấu sẽ được chuyển hóa
theo thời gian, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được bình an, hạnh phúc trong hiện tại
và mai sau. Chỉ vì chúng ta không gặp được bậc minh sư chân chính, không gặp được
thầy lành, bạn tốt, và tu hành không tới nơi tới chốn, nên hiểu sai lời Phật dạy;
như vị Tăng kia, vì nhập si định, nên không còn cảm giác, tưởng rằng như vậy là
không còn trả quả nữa mới trả lời như thế, mà bị đọa làm chồn đến 500 kiếp, mãi
cho đến khi được thiền sư Bá Trượng từ bi khai thị, vị Tăng kia mới thoát khỏi
được kiếp chồn.
Vì vậy, là người Phật tử chân chính chúng ta phải học
hỏi, tìm hiểu giáo lý cho kỹ càng, thấu đáo, sau khi có trải nghiệm và ứng dụng
lợi lạc trong cuộc sống bằng cách tin sâu nhân quả. Nếu chúng ta thực tâm tu
hành theo lời Phật dạy, thì mọi nghiệp xấu sẽ được chuyển hóa theo thời gian,
chắc chắn chúng ta sẽ đạt được bình an, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau.
Như trường hợp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn
tại thế, sau khi thành tựu đạo pháp, Ngài đi giáo hóa suốt 49 năm không biết mệt
mỏi, nhàm chán. Ngài thường nói, “ta chỉ là người thầy dẫn đường chỉ dạy cho mọi
người biết được điều hay lẽ phải, còn làm được hay không là do chính mình quyết
định.” Ta không thể ban phước hay giáng họa cho một ai, dù đó là cha mẹ của ta.
Ta không thể giúp cho ai thoát khỏi phiền muộn, khổ
đau, nhưng ta có thể hướng dẫn phương pháp chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau, đem lại
an vui, hạnh phúc, để mọi người biết mà thực hành. Bởi khi xưa, ta chưa biết
tu, mình làm điều xấu ác, nên phải chịu quả báo xấu ác; ngày nay, nhờ gặp Phật
pháp, ta cố gắng buông xả những thói quen xấu ác, hay làm điều thiện lành, tốt
đẹp, nên chuyển được quả xấu và sống hạnh phúc.
Chính vì vậy, suốt thời gian đức Phật đi giáo hóa độ
sinh, một số ngoại đạo đã ganh ghét, tật đố, tị hiềm với Ngài. Đạo Phật là đạo
của tình thương và sự tỉnh thức, là đạo của con người, vì con người mà thương
yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. Sau khi thấy những lời
dạy của đức Phật rất thiết thực và phù hợp với con người, họ chuyển sang tu
theo đạo Phật rất đông, và biết cách làm chủ bản thân để vượt qua số phận tối
tăm mà họ từng nghĩ do đấng bề trên áp đặt và định đoạt.
Trước tình trạng đó, một số ngoại đạo bị mất quyền
lợi, vì đệ tử của họ càng ngày càng thưa thớt, nên họ tìm cách phỉ báng, vu khống,
để giáo đoàn của Phật bị mất uy tín. Họ rắp tâm hại Ngài bằng nhiều cách, như
việc sắp sếp để một thiếu nữ đẹp hằng ngày đến Tịnh xá nghe Phật thuyết pháp.
Sau một thời gian, cô vu khống Người đã dụ dỗ cô làm chuyện xấu xa, đồi bại, đến
nỗi phải mang bầu.
Hôm đó, cô độn bụng giả và đến trong lúc đức Phật
đang thuyết pháp, khóc lóc. la lối om sòm trước mặt mọi người, “sa môn Cồ đàm
đã dụ dỗ tôi, giờ đây tôi bụng mang dạ chữa thế này mà không có ai chăm sóc, thật
là khổ thân tôi quá trời”; nhưng trời xui đất khiến thế nào, trong lúc cô diễn
kịch như thế, thì bỗng dưng bụng giả tuột ra, cô hoảng hồn bỏ chạy mất tiêu. Mọi
người đều thở phào nhẹ nhõm và càng tin sâu Phật pháp hơn.
Hại bằng cách này không được, bọn Bà La Môn bèn tìm
một cách khác. Do tâm oán hận, thù hằn, họ tìm mọi cách để trả đũa đức Phật. Dã
man hơn, họ thuê bọn côn đồ nghiện rượu giết chết người nữ kia, rồi đem xác
chôn giấu vào Tịnh xá. Sang ra, họ cho người đến báo vua quan, “chúng tôi có một
người nữ ngoan đạo thường xuyên đến Tịnh xá đức Phật nghe pháp, bây giờ đã mất
tích, xin nhà vua cùng các quan tìm cách điều tra, tìm ra manh mối”.
Được tin báo, nhà vua cho người đến Tịnh xá điều
tra, tìm hiểu, rồi phát hiện xác của người nữ bị chôn dưới đống rác trong Tịnh
xá. Vua Ba Tư Nặc là một đệ tử Phật rất thuần thành. Ông biết rõ đức Phật xưa
kia cũng là một vị hoàng tử chuẩn bị lên ngôi vua, quyền uy thế lực, vợ đẹp con
xinh, nhưng Ngài đã dám từ bỏ tất cả để đi tu, thì làm sao có chuyện giết người
như thế xảy ra.
Do vậy, nhà vua ra lệnh cho các quan phải điều tra,
tìm ra nguyên nhân tội ác giết người do ai gây nên. Trong lúc điều tra, có người
báo quan, một bọn côn đồ nghiện rượu đã gây ra vụ án, vì sau khi giết người nữ,
đem chôn xác trong Tịnh xá, họ lãnh được số tiền lớn rồi tụ tập lại nhậu nhẹt.
Đến khi nhậu quá say, do không làm chủ được bản thân mình, họ tự khai ra là đã
giết người để nhận lãnh số tiền hậu hĩnh. Quan binh đến nơi bắt bọn người này
đem về điều tra, thì bọn chúng khai, “chính bọn ngoại đạo vì ghen với Phật nên
âm mưu làm hại, rồi mướn chúng tôi giết cô gái và vu oan cho Phật”.
Khi ta có hành động muốn hại người, nhưng chưa hại
được ai thì mình đã bị trả quả. Trước tiên là cô gái, sau đó là bọn côn đồ, kế
đến là người âm mưu, tất cả đều phải chịu hành hình tức khắc, bằng cách quăng
vào hầm lửa thiêu sống.
Qua chuyện kể trên, Đức Phật giải thích: Nhiều kiếp
về trước, khi Đức Phật còn hành Bồ Tát đạo, Ngài vẫn còn những sai xót trong đời,
nên đã có lần vu khống một vị Bích Chi Phật là người phá giới, không tu hành
chân chánh và xúi người khác nói theo mình. Vì nguyên nhân đó mà nay tuy Ngài
đã thành Phật, không còn bị dính mắc, nhiễm ô, phiền não, khổ đau chi phối,
nhưng vì nghiệp cảm xa xưa nhiều đời trước, mà trong hiện tại Ngài vẫn phải chịu
quả báo bị người ngoại đạo vu khống, phỉ báng. Họ tìm cách mạ lỵ, hạ nhục Ngài
để vua quan bắt bớ, xử tội và bị mọi người tẩy chay.
Tuy hiện tại Ngài vẫn bị quả báo như vậy, nhưng với
tâm thanh tịnh sáng suốt, Đức Phật không còn bị dính mắc, nhiễm ô, nên mọi việc
đều qua khỏi. Vì là bậc giác ngộ, biết rõ nghiệp xấu đến với mình, nên Ngài
không than trách một ai, không thanh minh, hay phân trần điều gì để đính chính
cho mình. Khi sự việc xảy ra, Ngài vẫn bình thản, an nhiên, tự tại, dùng tâm từ
bi rộng lớn để soi sáng muôn loài vật. Sự thật như thế nào thì diễn biến, kết cục
như thế ấy.
Đức Phật là bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác đã giác
ngộ, giải thoát hoàn toàn, nên không còn phiền não, khổ đau của già-bệnh-chết
chi phối và đã an nhiên, tự tại trước mọi nghịch cảnh. Tuy nhiên, về mặt nhân
quả, Ngài vẫn phải chịu những oan trái do hậu quả của nghiệp quá khứ đã gieo
còn xót lại.
Từ một bài học quý báu qua câu chuyện trên, chúng
ta là người Phật tử chân chính, nên phải nên tin sâu nhân quả, quyết tâm không
gieo tạo nghiệp xấu ác, để làm mình và người khổ đau.Chính đức Phật còn phải chịu
trả quả như thế, huống hồ chúng ta là những phàm phu tục tử, chưa tu tập được
bao nhiêu, chưa đủ khả năng tự tại trong mọi hoàn cảnh, để chuyển hóa các nghiệp
xấu. Vì vậy, chúng ta cần phải ý thức được nhân nào dẫn đến phiền não, khổ đau,
làm tổn hại cho người vật, thì mình cố gắng dứt khoát không làm.
Biết được như vậy, chúng ta hằng ngày phải siêng
năng, tinh tấn tu hành, kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động,
không chút lơ là. Ta phải biết áp dụng tu trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi
nơi. Nhiều người chỉ tu với Phật, Bồ Tát, siêng năng sám hối, tụng kinh niệm Phật,
nhưng đối với gia đình, người thân, bạn bè, xã hội, thì ăn thua đủ. Tu như vậy
là sai lời Phật dạy. Mục đích chúng ta thờ Phật, lạy Phật, là để bày tỏ lòng
tôn kính, biết ơn, để bắt chước theo Ngài, hầu chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau, bằng
trái tim yêu thương và hiểu biết.
Khi đức Phật còn tại thế, một cô bé chuyên nghề bán
bánh rất quý mến đức Phật và Tăng đoàn, nên thường đem bánh cúng dường. Đức Phật
thấy cô bé nghèo khó, nhưng lòng quý kính Tam Bảo, nên thường khuyên nhủ, nhắc
nhở, chỉ dạy cô luôn phải tin sâu nhân quả, bỏ ác làm lành mà gieo tạo nhân tốt.
Rồi thời gian cứ êm ả trôi qua, cô bé vẫn hàng ngày làm bánh, đi bán kiếm tiền
nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và không quên dành phần để cúng dường. Một
hôm, vua Ba Tư Nặc có ý tìm người kế vị sau khi hoàng hậu đương triều qua đời,
và Ngài đã chọn cô bé bán bánh tiến cung và tấn phong hoàng hậu, hiệu là Mạt Lợi
phu nhân. Sau khi được làm hoàng hậu, cô nhớ những lời đức Phật chỉ dạy đã giúp
cô thay đổi cuộc đời, vì biết phát tâm cúng dường với tất cả lòng thành. Sau
đó, cô lại cung kính đem nhiều vật thực đến cúng dường đức Phật và chư Tăng, rồi
ngồi sang một bên, thưa rằng:
_ Kính bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà một số
phụ nữ trên thế gian này có thân hình xấu xí, đen đúa, bệnh tật khó coi, bị mọi
người chê bai, khinh khi, không thích thân cận, gần gũi. Do nhân duyên gì lại
có một số phụ nữ khi sinh ra trên cõi đời lại có uy quyền, thế lực, giàu sang tột
đỉnh?
Đức Phật trả lời:
_ Do nhân sân hận hay oán giận, thù hằn, thường
xuyên tức tối, bực bội, mắng chửi, làm mọi người khổ đau, nên đời nay phải chịu
quả báo xấu xí, đen đúa, bệnh tật khó coi, hay bị mọi người khinh chê, không
thích gần gũi.
_ Do nhân biết bố thí, cúng dường người tu chân
chính, biết cung kính, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, hoặc giúp đỡ, chia sẻ khi
thấy người khó khăn, bất hạnh, nên ngày nay ra đời được làm người nữ trong trắng,
đẹp đẽ, dễ coi, được sanh vào gia đình giàu sang, có quyền cao chức trọng, được
sống đời hạnh phúc và được nhiều người yêu thương, trìu mến.
Pháp thoại ngắn này giúp cho chúng ta càng tin sâu
nhân quả, vì biết rõ ràng muốn giàu có, nhiều tiền của, thì phải bố thí, cúng
dường; muốn thân tướng đẹp đẽ, trang nghiêm, thì phải biết kiên nhẫn, chịu đựng
trong mọi hoàn cảnh. Nhìn thấy quả trong hiện tại xấu hay tốt thì ta biết mình
nằm trong hoàn cảnh nào mà ráng cố gắng sửa sai, tích luỹ thêm phước báo, nhằm
chuyển hoá quả xấu ác ta đã lỡ gây ra.
Đã làm người trong trời đất có ai không từng nóng
giận? Nóng giận là thói quen xấu từ sự chấp ngã mà ra, thấy mình là ta, là
trung tâm của vũ trụ, nên tham được thì càng thêm tham, tham không được thì
sinh tâm sân hận, oán giận, thù hằn, rồi tìm cách trả đũa. Từ đó làm khổ gia
đình, người thân, làm tổn hại cho nhân loại, nên bị quả báo thân hình xấu xí,
đen đúa, khó coi, hay bị mọi người khinh chê, coi thường. Tại sao nóng giận lại
bị nghiệp quả nặng nề như vậy? Bởi khi nóng giận mặt mày ta nhăn nhó, khó coi,
trông rất dữ tợn; có khi, mặt đỏ bừng bừng đầy sát khí. Khi nóng giận, ta cảm
thấy khốn khổ, đau đớn, dằn vặc trong tâm, nên mình chưa hại được ai, mà bản
thân đã thấy bất an, ray rứt, khiến lòng tràn ngập nỗi khổ, niềm đau.
Người nóng giận có thể dẫn đến hành động nạt nộ, chửi
mắng, đánh đập; hoặc vì sự nóng giận cao độ không dằn được, mà có thể giết người,
hoặc làm những việc phi pháp khác, do không kìm chế được cơn sân hận. Nóng giận
thường làm cho ta khổ đau trong hiện tại và mai sau và làm cho người khác đau
khổ, nên bị quả báo thân hình xấu xí, bệnh tật là vậy.
Trong gia đình, nếu cha mẹ hay thường xuyên tranh
cãi, không ai biết nhường nhịn, chồng nói vợ không nghe, con cái không vâng lời,
ai cũng bảo vệ ý kiến, luôn cho mình là đúng, sẽ dẫn đến bất an, mất hạnh phúc.
Có nhiều gia đình đang sống ấm êm, hạnh phúc, nhưng vì nóng giận mà làm tan nhà
nát cửa, vợ chồng, con cái khốn khổ. Do đó, nhà Phật chỉ rõ cho chúng ta biết
nhân nóng giận sẽ dẫn đến hậu quả khổ đau trong hiện tại, và đời sau bị quả báo
xấu xí, bệnh tật.
Nếu ai nóng giận quá mức thì sau khi chết sẽ bị đọa
lạc vào cõi súc sanh như rắn, gà, cá, sói, beo, cọp. Những loài này không biết
thương yêu nhau, khi gặp nhau thường đấu đá, xâu xé, giết hại lẫn nhau. Nguyên
nhân chính cũng vì nóng giận mà ra. Bởi do tập nghiệp, thói quen sân hận quá mạnh,
nên phải sanh vào các loài súc sinh như thế để ăn nuốt lẫn nhau. Chúng ta còn đầy
đủ duyên phước được sanh trở lại làm người, nhưng bị quả báo thân thể xấu xí,
khó coi, ốm yếu, tật nguyền, bởi khi nóng giận ta tự làm mình khổ trước, rồi mới
làm cho người khác khổ theo.
Có một câu chuyện kể về một bà mẹ mang thai được 7,
8 tháng. Do người chồng mê muội, đắm say nữ sắc, đi theo vợ bé, nên bà tức tối,
nổi cơn ghen ghét, nguyền rủa, chửi mắng, la hét người chồng thậm tệ, rồi bỏ về
nhà cha mẹ ruột luôn. Đến ngày khai hoa nở nhụy, cô sinh ra một đứa bé kháu khỉnh;
nhưng chỉ vài ngày sau, đứa bé chết đi mà không một triệu chứng bệnh tật. Các
bác sĩ sau khi khám nghiệm đủ cách mà vẫn không tìm ra được nguyên do. Cho đến
khi họ xét nghiệm máu, mới phát hiện đứa bé chết do nhiễm độc tố từ người mẹ.
Do bà nóng giận quá mức, nên những độc tố trong người tiết ra, ngấm vào máu, ảnh
hưởng đến bào thai. Đứa bé ra đời, được bú sữa mẹ, lại bị nhiễm độc từ sữa nên
bị chết.
Câu chuyện trên cho ta bài học quý báo về hậu quả của
sự nóng giận, nên một người nữ mang thai cần phải hết sức bình tĩnh, không nên
sân hận quá mức, mà làm hại bản thân và chính con của mình. Không chỉ những khi
mang bầu mà bất cứ khi làm việc gì, chúng ta cũng nên bình tĩnh quán xét, ngăn
ngừa cơn giận, vì nó còn dẫn đến tình trạng tăng huyết áp, gây hại cho tim mạch.
Có người do nóng giận quá mà bị tai biến mạch máu não, đã dẫn đến tử vong.
Ngoài ra, cơn nóng giận còn dẫn đến nhiều nguyên
nhân như nằm ngủ mơ thấy ác mộng, thấy cảnh binh đao, tàn sát, giết hại lẫn
nhau… làm cho mình sợ hãi, buồn bực, khốn đốn, sống trong thực tại không được
an ổn, không được hạnh phúc.
Do nhân nóng giận có thể gieo ân oán, hận thù với
người, nên mình lúc nào cũng lo lắng, sợ bị trả thù, rồi mang tâm trạng sợ hãi,
bất an. Con người sinh ra có nhiều sự sai biệt do đã gieo nghiệp bất đồng với
nhau. Có người thì giàu sang sung sướng, hưởng đầy đủ phúc lạc; có người nghèo
khổ, bệnh hoạn, đau yếu; có người sống thọ, có người chết yểu; có người đẹp, có
người xấu; có người đen, có người trắng; có người cao, có người thấp… Tất cả sự
khác biệt này đều do chúng ta gieo tạo tập nghiệp nhân quả khác nhau.
Nhà Phật dạy rằng, muốn chuyển hóa những sân hận,
si mê, thì chúng ta phải thường xuyên quán từ bi, quán tình thương, thấy ai
cũng là người thân, người thương của mình, qua đó chuyển hoá được cơn nóng giận.
Giáo lý nhân quả rất quan trọng và thiết thực. Người
Phật tử chân chính cần phải am tường, thấu rõ và tin tưởng vào nhân quả, để
hành trì, tu tập, dấn thân làm việc phục vụ tha nhân không biết mệt mỏi, nhàm
chán, bằng trái tim hiểu biết. Những khi gặp phải chướng duyên, nghịch cảnh,
thì biết tự mình an ủi, tu tập, để chuyển hoá mà vượt qua những bất hạnh trong
cuộc đời. Ta phải tự chiêm nghiệm và tin tưởng sâu sắc những lời Phật dạy mà cố
gắng bền bỉ, tinh tấn tu hành. Đó là con đường tươi sáng và tốt đẹp để chúng ta
tiến dần đến quả giác ngộ và giải thoát hoàn toàn nhờ thấu hiểu nhân quả.
Có lần đang giữa trưa hè nóng bức, vua Ba Tư Nặc
thân hành đến chỗ Đức Phật. Sau khi đảnh lễ, Ngài ngồi xuống một bên, thưa rằng:
Kính bạch Thế Tôn, có một người triệu phú thành Xá Vệ vừa mất, mà không có con
nối dõi, nên con đến để kiểm tra tài sản. Số tiền lên đến hơn 8 triệu tiền vàng
được sung vào công quỹ; đó là chưa kể đến tiền bằng bạc và đất đai, ruộng vườn.
Thức ăn của vị triệu phú này chỉ có cháo tấm chua còn sót lại, đồ mặc chỉ vài
ba bộ quần áo bằng vải gai bình thường, các đồ dùng trong nhà không có gì quý
giá ngoài những chiếc xe cũ kỹ.
Nhà vua vừa nói, vừa thắt mắc tại sao một vị triệu
phú lại có cuộc sống quá giản đơn đến thế? Đức Phật giải thích: Thật đúng như vậy,
Đại Vương. Vị triệu phú cô độc này ở một kiếp nọ đã phát tâm cúng dường cho vị
Bích Chi Phật thật nhiều món ngon vật lạ, nhưng sau đó khởi tâm hối tiếc, nói rằng:
“Đúng ra thức ăn này ta nên đưa cho người làm công ăn”. Do kết quả của việc
cúng dường rồi sinh tâm hối tiếc ấy, nên tuy ông được 7 lần làm triệu phú, tài
sản tiền của chứa đầy nhà, vẫn không ăn được món ngon, vật lạ nào, không mặc được
đồ tốt đẹp, mà chỉ xài những đồ thô sơ, không có giá trị. Ngoài ra, ông ta còn
giết mạng sống con của anh mình để chiếm đoạt tài sản. Do nhân giết hại và cướp
tài sản, vị này sau khi chết bị đọa vào ba đường dữ để chịu quả xấu trong vô lượng
kiếp. Bởi hành động và việc làm như thế, tuy là một triệu phú trong bảy đời, cuối
cùng không tích lũy thêm phước báo mới, nên hiện tiền chết bị đọa vào địa ngục.
Nói xong đức Phật đọc bài kệ:
Tài sản vật sở hữu
Tất cả không đem theo
Khi nhắm mắt lìa đời
Chỉ mang nghiệp tốt xấu
Như bóng không rời hình
Do vậy hãy làm lành
Để dành cho đời sau
ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét