Xem nguồn ở đây
Không buông theo ngã dục
Luôn tùy thuận pháp hành
Đó chính là tinh tấn
Tích cực sống nhiệt thành
(Viên Minh)
Làm việc gì chúng ta cũng cần có sự cố gắng, chuyên cần, siêng năng, nỗ lực, hăng hái, nhiệt thành vừa đủ
để thực hiện công việc đó; nếu không chúng ta sẽ không thể hoàn thành
bất cứ việc gì dù dễ hay khó. Thái độ tiêu cực, lười biếng, buông xuôi,
chểnh mảng, phóng dật, hay “nhắm mắt đưa chân” đều là đầu mối của sự thoái hóa, sa đọa, suy đồi và thất bại trong mọi lãnh vực.
Tích cực hay cần mẫn chín chắn đúng mức được gọi là chánh tinh tấn, một trong bốn yếu tố quyết định để hoàn thành mọi việc:
1) Nguyện vọng chính đáng
2) Tinh cần đúng mức
3) Chuyên chú nhất tâm
4) Thông hiểu sự lý của tiến trình thực hiện
Đầy
đủ bốn yếu tố này chúng ta có thể thực hiện thành công bất cứ việc gì
dù khó đến đâu nên được gọi là bốn pháp như ý. Giả sử chúng ta luôn ấp ủ
một nguyện vọng chính đáng và đã hiểu biết thành thạo sự việc, mà
thiếu nỗ lực thích ứng thì cũng không thực hiện được nguyện vọng một
cách như ý được.
Trong
thiền Vipassanā, chánh niệm và tỉnh giác là hai yếu tố cốt lõi, nhưng
nếu thiếu tinh tấn thì vẫn không đủ lực để thể hiện giác niệm một cách
đúng mức cần thiết cho sự soi chiếu trung thực.
Như
con dao hai lưỡi, tinh tấn tự nó là trung tính, nhưng khi ứng dụng vào
hành động của thân tâm thì nó quyết định mức độ đúng, sai, thiện, ác.
Tinh tấn thích ứng, vừa đủ là đúng; tinh tấn yếu kém hay dư thừa là
sai. Nỗ lực tùy thuận pháp là đúng, nỗ lực tùy thuận ngã là sai. Siêng
năng trong điều lành là thiện, hăng hái trong việc ác là bất thiện, vì
vậy mới có chánh tinh tấn và tà tinh tấn.
Mặc
dầu nhiệm vụ của chánh tinh tấn là ngăn ngừa và từ bỏ điều xấu ác
(pháp bất thiện), đồng thời, gieo trồng và phát triển điều tốt lành
(pháp thiện), nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải cố gắng trừ
khử điều ác một cách chủ quan, và phát triển điều lành theo quan điểm
luân lý nào đó hay quan niệm đạo đức của riêng mình. Vì định nghĩa rốt
ráo nhất của chánh tinh tấn là không buông lung theo ý đồ ảo tưởng của
bản ngã, mà chỉ tinh tấn sống thuận theo nguyên lý chân thực của pháp.
Bao lâu chưa thấy bản chất thật của thiện ác, đúng sai mà nỗ lực hành
động theo quan niệm đạo đức sẵn có thì chúng ta vẫn còn bị dính mắc hay
ỷ lại vào khuôn sáo, như vậy đâu phải là chánh tinh tấn! Dù chúng ta
có cố gắng rập khuôn đúng mẫu mực đạo đức nào đó thì vẫn hàm nghĩa lười
biếng, vì sâu trong tiềm thức chúng ta có khuynh hướng bắt chước theo
khuôn mẫu có sẵn dễ hơn là tự mình khám phá ra bản chất thật của thiện
ác, đúng sai một cách độc lập và sáng tạo.
Giống
như khi bạn đi trên con đường phẳng phiu đã dọn sẵn, thì bạn đâu cần
phải dọ dẫm thận trọng từng bước chân, nhưng đồng thời bạn cũng dần dần
đánh mất khả năng sáng tạo và tinh tế để khám phá những chuyển biến bất
ngờ. Vậy khi chọn cho mình một phương pháp an toàn, một tư thế chuẩn
bị để thấy vô thường thì lúc đó vô thường đã được định hình trong ý
niệm chứ không còn là vô thường trong tự thân của nó.
Vậy
tinh tấn chính là bạn cần phải đối diện với sự thật vô thường trong
đời sống tự nhiên chứ không phải tìm cách lẩn tránh vô thường thực tế
để cố gắng tìm kiếm vô thường qua trung gian một trạng thái thiền đặc
biệt nào đó! Vì vô thường này chỉ là
phóng chiếu sự tưởng tượng của bạn phỏng theo khái niệm đã được mô tả
trong sách vở, không phải là bản chất vô thường thật sự trong thực tại
sống động. Đó là lý do vì sao trong trạng thái thiền thì bạn thấy vô
thường, nhưng khi ra khỏi trạng thái thiền thì phóng ảnh vô thường ấy
cũng biến mất luôn, chỉ còn lại trong ký ức bạn một khái niệm vô thường
không thực.
Bạn
cần khám phá xem mình đang tinh tấn như thế nào và vì mục đích gì?
Không phải lúc nào tinh tấn cũng đúng, dù tinh tấn để hỗ trợ chánh niệm
tỉnh giác. Vì khi giác niệm sai hoặc không chính xác thì càng tinh tấn
càng tệ hại hơn. Trong trường hợp này, tinh tấn chỉ uổng phí công sức
và thời gian vô ích mà thôi.
Nhiều
hành giả than phiền rằng họ đã hết sức tinh tấn chánh niệm tỉnh giác
để diệt trừ sân hận, nhưng thất bại. Người khác hành thiền rất mực tinh
tấn để mong đạt được các bậc tuệ, mà vẫn không thành công. Tại sao? Lý
do là vì họ đã tinh tấn sai lầm, áp dụng giác niệm sai lầm và hướng
đến mục đích sai lầm! Những người này tưởng mình đang tinh tấn chánh niệm tỉnh giác theo thiền tuệ Vipassanā nhưng thực ra họ đang nỗ lực tầm tứ
theo thiền định mà thậm chí còn là tà định nữa. Thiền Vipassanā có mục
đích thấy ra bản chất thật của thực tại thân-tâm-cảnh chứ không phải
là cố gắng loại trừ hay đạt được điều gì cả.
Tinh
tấn một cách chủ quan theo tư ý của mình là sai lầm thứ nhất. Tinh tấn
với một mức độ không thích hợp – quá nhiều hoặc quá ít – là sai lầm
thứ hai. Và tinh tấn với mục đích loại trừ điều không thích hoặc đạt
được điều ưa thích là sai lầm thứ ba. Nếu mắc phải ba sai lầm trên, dù
bạn có tinh tấn đến đâu đi nữa cũng không thể thấy ra được thực tánh
pháp mà chỉ bành trướng thêm cái ta tham ái và tà kiến mà thôi!
Ý
chí thúc đẩy bạn tinh tấn để loại trừ trạng thái sân lại chính là một
thái độ sân, như vậy chẳng khác nào đổ dầu để dập lửa. Theo cách đó,
bạn càng tinh tấn càng tạo ra xung đột nội tại. Trong xung đột này dù
thắng hay thua, thì thực ra bạn vẫn thất bại, vì chỉ tạo điều kiện cho
phiền não khổ đau gia tăng áp lực mà thôi. Giống như khi bạn ép một
trái bóng càng mạnh thì không khí bên trong càng gia tăng áp lực.
Vậy
tại sao bạn phải tiêu hao năng lực để chống lại cái không thích (sân)
khi nó chính là cơ hội tốt giúp bạn thấy ra chính mình - thấy ra bản
chất của tâm trạng không vừa lòng mà đàng sau đang ẩn giấu “cái ta” nguy
hiểm?
Mặt
khác, tinh tấn để đạt được điều ưa thích là phục vụ cho lòng tham, lúc
đó càng tinh tấn càng tạo ra lực hướng ngoại lớn hơn. Thế rồi chính sự
hướng cầu bên ngoài này làm bạn tiêu hao và phân tán năng lực. Trong
lãnh vực này, một lần nữa bạn lại thất bại vì đã tạo thêm điều kiện cho
khổ đau phiền não gia tăng.
Vì
vậy, bao lâu còn chưa thấy ra sự thật thì mọi nỗ lực phản ứng vội vàng
của bạn chỉ làm cho sự việc rắc rối và tồi tệ hơn thôi. Giống như gỡ
một đống chỉ rối mà không thấy ra đâu là đầu dây mối nhợ thì càng cố gỡ
càng làm cho nó rối bời thêm.
Tinh
tấn là không buông xuôi, không lơ là, không lười biếng, không tiêu cực
thụ động v.v... nói cụ thể chính xác là không buông lung phóng dật
theo ý đồ của cái ta ảo tưởng. Vậy chỉ nên hiểu tinh tấn theo nghĩa phủ
định, vì những nghĩa xác định như cố gắng, nỗ lực, siêng năng, cần mẫn
v.v... dễ bị hiểu lầm theo kiến thức của mỗi người, rồi ứng dụng chủ
quan theo một kiểu mẫu sai lầm. Mức độ tinh tấn phải thích ứng với từng
trường hợp khác nhau. Nếu không đủ minh mẫn bén nhạy tự nhiên để “tùy cảm nhi ứng”
thì nỗ lực chỉ phí công vô ích mà thôi. Thông thường chỉ cần chúng ta
không buông xuôi, giải đãi, tiêu cực, thì sau đó chính tinh tấn sẽ tự
điều chỉnh mức độ cần yếu theo luật vận hành tự nhiên của pháp.
Ví
dụ, khi lên hay xuống dốc, khi qua đường lầy lội hoặc gồ ghề v.v... sự
nỗ lực của bạn tự biết điều chỉnh mức độ thích ứng như thế nào cho
từng bước chân theo phản xạ tự nhiên, mà không cần ý chí của bạn can
thiệp vào một cách chủ quan. Những người khôn khéo chơi lướt sóng, biểu
diễn xiếc, thả bè trên thác v.v... đều biết học cách thuận ứng theo
phản xạ tự nhiên hơn là gắng gượng sử dụng công sức theo phỏng đoán của
mình. Giống như khi bạn ngồi xe ô-tô đi qua một đoạn đường đèo quanh
co hiểm trở, để khỏi ngã tất nhiên bạn phải vịn vào một điểm tựa nào
đó, nhưng nếu bạn cố ghì nắm tay quá chặt thì sớm muộn gì bạn cũng sẽ
không còn sức để nắm vững được nữa. Vì vậy, bạn chỉ cần ngồi thoải mái
để tay thư thả tự nhiên, thì khi xe qua khúc quanh tay bạn sẽ tự động
nắm vào chỗ vịn vừa đủ để không bị ngã, mà không mất sức hay bị tê
cứng. Những gì bạn cần là yếu tố tự tin, nhẫn nại, trầm tĩnh, chánh
niệm tỉnh giác v.v... để thấy sự tinh tấn của thân tâm bạn tự thích ứng
như thế nào hơn là cố gắng dụng công một cách chủ quan theo ý chí của
bạn.
Tinh tấn thiếu định tĩnh dẫn đến tình trạng bồn chồn dao động. Định tĩnh thiếu tinh tấn đem lại trạng thái thụ động hôn trầm. Tinh tấn thiếu trí tuệ phát sinh kiêu căng ngã mạn, trí tuệ thiếu tinh tấn sẽ rơi vào thái độ lãnh đạm thờ ơ. Tinh tấn thiếu đức tin chỉ là nỗ lực của cái ta ảo tưởng; đức tin thiếu tinh tấn
là ỷ lại vào năng lực bên ngoài v.v... Vì vậy, tinh tấn cần được hòa
hợp với những yếu tố khác trong chánh niệm tỉnh giác một cách cân đối tự
nhiên mới phát huy được hiệu năng tốt nhất.
Có
một vị Tăng sau khi xuất gia đã hết sức tinh tấn hành trì nhưng không
đạt được kết quả mong đợi. Vị ấy vô cùng thất vọng, chán nản, xin phép
đức Phật từ bỏ đời sống xuất gia trở về thế tục, phàn nàn rằng giáo
pháp của Ngài không đem lại lợi lạc nào. Nhân đó đức Phật dạy không nên
quá tinh tấn, dù với mục đích chính đáng, huống chi chỉ vì mục đích
vọng cầu. Quá nhiều tinh tấn hay quá nhiều buông lung đều là những thái
độ sai lầm. Ví như sợi dây đàn quá căng hay quá chùng không thể phát
ra âm thanh du dương trầm bổng.
Nỗ lực đạt được một điều kiện lý tưởng ở tương lai luôn
đi kèm với nỗ lực loại trừ điều kiện không vừa lòng trong hiện tại,
nghĩa là bạn bị rơi vào tình trạng mâu thuẫn đối kháng giữa cái đang là
và cái sẽ là, điều này chỉ tạo ra áp lực thời gian tâm lý và một sự
căng thẳng do nỗ lực của ý chí muốn mau chóng loại cái này để đạt được
cái kia. Nếu không đạt được kết quả như ý thì bạn tự chuốc lấy thất
vọng, chán chường, khổ đau, phiền muộn. Còn nếu đạt được mục đích như ý
thì bạn càng gia tăng ngã mạn, kiêu căng vì cho rằng đó là kết quả do
nỗ lực của mình. Nhưng sớm muộn gì bạn cũng sẽ nhàm chán những thành
tích đạt được, bởi vì cái gì có sinh tất có diệt, và cái gì có được từ
tham cầu thì không bao giờ thỏa mãn, nên lòng tham ái sẽ tiếp tục nỗ
lực tìm cầu cái chưa có.
Một
khi đã có khát vọng để tìm cầu và đã có sở đắc để bám níu, thì bạn đã
tự mình trói buộc vào thời gian và bản ngã, không còn khả năng đối diện
với sự thật vô thường đang diễn ra tại đây và bây giờ. Biến dịch vốn
là để hanh thông bỗng nhiên trở thành chướng ngại do tham cầu của bản
ngã. Thực ra, mọi thành tựu đều do pháp vận hành, không phải đạt được
nhờ ý chí cá nhân. Nỗ lực cá nhân thường chỉ gây trở ngại cho tiến
trình vận hành của pháp mà thôi. Chính nỗ lực hăng say và ý chí cuồng
nhiệt này làm tiêu hao năng lực vốn đủ để sống một đời sống tùy duyên
thuận pháp vô ngã vị tha đầy nhiệt tâm cần mẫn.
*
Trong kệ ngôn Dhammapada 21 đức Phật dạy: “Không buông lung là sinh lộ, phóng dật là tử lộ”; và trong Kinh Aṅguttara Nikāya Ngài nói rõ hơn: “Ta
không thấy một pháp nào khác v.v... có thể đưa đến lợi ích lớn như
tinh cần tinh tấn v.v... do pháp ấy các pháp thiện chưa sinh được sinh
khởi, các pháp bất thiện đã sinh được đoạn tận”.
Vì vậy, khi tinh tấn đúng chỗ, đúng lúc, chính xác và phù hợp với hoàn cảnh thì nó sẽ thể hiện được bốn công năng chính:
- Ngăn ngừa pháp bất thiện chưa sinh:
Ngăn ngừa không phải là chờ pháp bất thiện đến rồi cố gắng chận đứng
lại không cho nó sinh khởi, mà khi bạn tinh tấn đúng tốt thì các pháp
sai xấu không thể sinh lên. Giống như khi ngọn đèn tỏa sáng thì bóng tối
không thể đến được.
- Đoạn trừ pháp bất thiện đã sinh:
Đoạn trừ cũng không có nghĩa là nỗ lực tiêu diệt pháp bất thiện đã
sinh, mà khi tinh tấn đúng thiện pháp thì pháp bất thiện tự rút lui.
Giống như khi mặt trời lên thì bóng đêm tự tan biến.
- Khởi sinh pháp thiện chưa sinh: Điều
này rất dễ hiểu lầm, nên nhiều người cố gắng tập luyện để sở hữu được
những phẩm chất đạo đức, hay làm nhiều thiện sự để có nhiều công đức.
Thực ra, khi tâm không còn bị pháp bất thiện chiếm giữ thì pháp thiện sẽ
tự khởi sinh một cách tự nhiên chứ không phải là kết quả nỗ lực của
bản ngã.
- Phát huy pháp thiện đã sinh: Như
chúng ta vừa nói trên, thiện pháp tự sinh, và khi không còn bị che lấp
bởi pháp bất thiện của cái ta ảo tưởng thì thiện pháp sẽ tự phát huy
diệu dụng viên mãn chứ không phải do bản ngã dụng công phát triển.
Bốn
công năng này không phải được thực hiện riêng rẽ mà thường tiến hành
cùng lúc, nghĩa là khi một trong bốn công năng dẫn đầu thì ba công năng
kia cũng tự động có tác dụng.
Ví
dụ, khi tâm đang tinh tấn phát huy lòng từ ái thì các thiện tâm sở
tương ứng liền cùng phát sinh (khởi sinh pháp thiện chưa sinh), đồng
thời tâm sân tự biến mất (đoạn trừ pháp bất thiện đã sinh) và tâm sân
không thể sinh khởi trở lại khi tâm từ đang hiện diện (ngăn ngừa pháp
bất thiện chưa sinh). Chính sự tinh tấn này duy trì và phát huy tâm từ
vô lượng (phát huy thiện pháp đã sinh).
Ngoài ra chánh tinh tấn còn giúp chúng ta:
- Dễ thành công trên mọi lãnh vực: Người tinh tấn, không thối chí nản lòng nên không bỏ cuộc nửa chừng vì vậy họ dễ dàng đạt được mục đích của mình.
-Thêm bạn bớt thù: Tinh tấn là loại bỏ điều ác, làm những hạnh lành, nghĩa là luôn sống lợi mình lợi người nên gieo ân nhiều hơn kết oán.
- Thân tâm an lạc: Người
siêng năng luôn năng động, phấn khởi, tích cực; không rơi vào tình
trạng trì trệ, buông xuôi, tiêu cực; không dễ sinh buồn phiền, chán nản,
hay say sưa, nghiện ngập, vì vậy, luôn tự tin và hoan hỷ.
- Danh thơm tiếng tốt: Người
tinh tấn luôn vượt trội hơn giữa những người yếu đuối, giống như con
ngựa khỏe giữa đám ngựa yếu gầy. Vì vậy, dù không cần danh vọng địa vị
họ vẫn được trọng vọng hơn người.
Hỏi:
-
Con hành thiền Vipassanā, phải thường tinh tấn giác niệm để loại trừ
tham sân. Bây giờ thầy nói tinh tấn như vậy có thể sai, làm con hoang
mang không hiểu vì sao đã là tinh tấn giác niệm mà lại còn có thể sai
được?
Đáp:
-
Dĩ nhiên, chánh tinh tấn, chánh niệm và tỉnh giác không sai. Nếu thực
hiện đúng, đó là những yếu tố quyết định cho sự giác ngộ giải thoát.
Nhưng khi bạn ứng dụng những yếu tố này với thái độ không đúng, mục đích
không đúng thì chỉ mang lại phản tác dụng mà thôi.
Thế
nào là mục đích và thái độ sai? Khi bạn tinh tấn với ý định muốn diệt
tham/sân thì ý định đó cũng là một kiểu tham/sân khác. Như vậy, ngay từ
đầu, tinh tấn bị thúc đẩy bởi động cơ tham/sân đã là thái độ thất niệm
rồi làm sao có thể gọi là tinh tấn chánh niệm tỉnh giác được?
Có thể bạn đã hiểu lầm lời dạy của Đức Phật trong Kinh Tứ Niệm Xứ: ”Ở
đây,… chế ngự tham sân ở đời, vị tỳ kheo sống quán thân trên thân…,
quán thọ trên các thọ…, quán tâm trên tâm…, quán pháp trên các pháp, với
tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác”. Cho nên bạn đã tinh tấn với ý
định diệt trừ tham/sân. Nhưng lời dạy này ám chỉ rằng trong khi quán
chiếu bạn không được để cho tham hay sân xen vào che lấp cả chánh niệm
tỉnh giác lẫn đối tượng. Nếu bạn quán chiếu vì thích hay ghét đối tượng
thì bản ngã đã xen vào ngăn che sự thấy biết trong sáng của bạn, trong
khi mục đích của tinh tấn chánh niệm tỉnh giác là phát hiện ra cấu trúc
của bản ngã cùng với những hoạt động tạo tác ngăn che thực tánh pháp,
chứ không phải để khước từ pháp này hay nắm bắt pháp nọ theo ý đồ của
bản ngã tham/sân. Bởi vì đó không phải là tinh tấn trong chánh niệm tỉnh
giác mà là trong thất niệm bất giác. Và tinh tấn trong thất niệm bất
giác dĩ nhiên là sai, vì làm thế nào mà tham/sân lại loại trừ tham/sân
được?
Khi
nói tinh tấn giác niệm để diệt trừ tham/sân thì thực ra bạn đang cố
gắng tầm tứ (hướng tâm vào sự tập trung) theo cách thiền định chứ
không phải thiền Vipassanā nên không thể nào thấy được thực tánh. Thái
độ giác niệm đã không đúng thì vô tình làm phương tiện cho bản ngã mà
thôi. Giác niệm mà đa số thiền giả thể hiện là theo kiến thức chủ quan
và giới hạn trong phương pháp của một thiền sư hơn là y cứ trên thực
tại khách quan. Thật là một nhầm lẫn tai hại biết bao!
Hỏi:
- Cố gắng loại trừ điều xấu, trau dồi điều tốt là lý do tu hành chính đáng sao gọi là tham sân được?
Đáp:
-
Lý do chính đáng nhưng thái độ và động tác thực hiện sai thì bạn vẫn
không đạt được mục đích. Giống như bạn thêm dầu để chữa cháy là đúng hay
sai? Cũng vậy, bạn không thể loại trừ điều xấu bởi tham hay sân được.
Nói vậy không có nghĩa là cứ để mặc cho thói hư tật xấu phát triển tự
do chẳng cần cải thiện gì cả, vì như vậy lại rơi vào buông xuôi phóng
dật. Nếu như một bộ phận nào đó trong ô-tô của bạn bị hỏng, dĩ nhiên là
bạn phải sửa chữa hoặc loại bỏ nó đi và tìm mua một cái mới để thay
vào. Nhưng trước tiên bạn hay người thợ máy phải thấy biết chính xác
chỗ thật sự cần sửa đổi mới được.
Khi
bạn cố gắng loại trừ điều xấu, trau dồi điều tốt do thấy biết đúng, đó
là nỗ lực thuận pháp chứ không phải tham sân. Nhưng khi bạn cố gắng
một cách chủ quan thiếu thấy biết đúng để loại trừ điều xấu, trau dồi
điều tốt, thì bạn chỉ làm cho vấn đề phức tạp thêm theo quan niệm thiện
ác của bạn. Giống như người cứ cố uống thuốc để chữa bệnh nhưng không
biết rõ bệnh mình cũng không am tường về thuốc thì không phải tự hại
mình sao?
Hỏi:
-
Khi tôi tập luyện yoga hay thực hành thiền định tất nhiên tôi phải cố
gắng điều hòa hơi thở và tập trung tâm ý. Sự cố gắng ổn định hai yếu tố
như vậy là để phát triển năng lực sao có thể gọi là tiêu hao năng lực
được?
Đáp:
Có hai loại năng lực:
-
Một là nội lực tự sinh, năng lực này ẩn tàng, và bình sinh dường như
không có dấu vết, nên không cần giữ gìn phát triển. Tuy nhiên khi cần nó
sẵn sàng đáp ứng vô hạn mà không bao giờ bị hao tổn.
-
Hai là năng lực thủ đắc do khổ công rèn luyện, năng lực này có giới
hạn, tùy điều kiện, nên phải kiên trì gìn giữ, phát huy, mới không mai
một. Nhưng khi đem ra sử dụng thì nó rất dễ bị tiêu hao và cạn kiệt.
Trong
trường hợp thứ nhất, một sự cố gắng chủ quan do tham vọng đạt được
năng lực có thể chỉ cản trở tính linh hoạt của nội lực tự sinh. Năng
lực này chỉ đến khi tâm bạn lặng lẽ rỗng rang, theo nguyên lý “Điềm đạm hư vô chân khí tùng chi”. Vì
vậy bạn phải thận trọng xem lại việc luyện tập yoga hay thiền định của
bạn có thật sự là một nhu cầu tự nhiên hay chỉ là ý muốn chủ quan của
bản ngã.
Trong
trường hợp thứ hai, năng lực có thể đạt được nhờ khổ luyện với điều
kiện bạn phải nỗ lực đúng và nhận thức đúng về sự tương quan vận hành
của thân tâm. Nếu không bạn sẽ chỉ tiêu phí năng lực vô ích. Tất nhiên,
cố gắng phát triển năng lực loại này bạn có thể thành công, nhưng năng
lực nhân tạo này sẽ dễ dàng bị tiêu mòn ngay nếu bạn ngưng khổ luyện.
Hơn
nữa, bạn phải sử dụng một năng lực để thủ đắc một năng lực mà bạn kỳ
vọng, rồi lại phải mất một năng lực khác để duy trì phát triển năng lực
đã đạt được. Như vậy có nghĩa là để đổi lấy năng lực bạn mong muốn thì
bạn phải hao tổn năng lực của mình, đúng không?
Vì
vậy, luyện công có vẻ như gia tăng công lực nhưng đồng thời cũng chính
là đang tiêu phí năng lực. Giống như một võ sĩ vận lực tung ra một cú
đấm mạnh bao nhiêu thì cũng tiêu hao bấy nhiêu công lực. Nên đánh càng
lâu anh ta càng thấm mệt.
Nội
lực tự sinh vốn vận hành một cách tự nhiên, tạo ra sự sống linh động,
hài hòa, hanh thông bất trệ, đã bị phá hỏng bởi chính những nỗ lực chủ
quan của chúng ta phát xuất từ bất mãn, tham vọng và vô minh tà kiến
của “cái ta chấp thủ”.
Nếu
bạn tập yoga hay hành thiền định như một cố gắng của cái ngã tham vọng
thì bạn sẽ chỉ đạt được năng lực hữu hạn, nhưng khi bạn thật sự chánh
niệm, khách quan và vô tư thì tinh tấn của bạn sẽ tùy cơ ứng biến một
cách tự nhiên. Vì vậy, bạn không cần gắng sức mà tâm ý tự định tĩnh,
năng lực tự điều hòa. Đó mới chính là yoga, thiền định đích thực và vô
ngã.
Hỏi:
- Phải chăng nói thế có nghĩa là mọi ý chí rèn luyện tu tập cho tương lai tốt đẹp hơn hay để hoàn thiện chính mình đều sai?
Đáp:
-
Không phải tất cả. Tuy nhiên, nếu chúng ta tự hỏi: “Ai mong muốn một
tương lai tốt đẹp? Ai hy vọng hoàn thiện chính mình?” thì liệu câu trả
lời sẽ là gì? Bạn có đủ can đảm đối mặt với sự thật này không? Phải
chăng luôn có cái ta ẩn núp bên trong, thúc đẩy bạn thực hiện ý đồ của
nó? Nếu vậy, càng đạt được nhiều sở đắc, cái ta của bạn càng kiên cố
hơn. Để rồi chính cái ngã hoàn thiện đó trói buộc bạn chặt hơn trong
luân hồi sinh tử. Làm thế nào bạn thoát khỏi hệ lụy này?
Ý
chí hoàn thiện có thể chỉ là chiêu bài của tham vọng cầu toàn, mà thực
chất chỉ là ảo tưởng “đứng núi này trông núi nọ” mà thôi. Vì vậy, nỗ
lực loại bỏ cái này chiếm hữu cái kia trong sự chọn lựa chủ quan chỉ là
sự vẽ vời của cái ta không ngừng vọng động.
Nếu
tu tập là chiếu soi, khám phá thực tại để hóa giải cái ta ảo tưởng,
cùng với toàn bộ qui trình vận hành của nó thì dĩ nhiên không sai. Và
nếu rèn luyện là kỹ thuật đáp ứng những nhu cầu cần yếu hay điều chỉnh
những vấn đề thiết thực hiện tại thì hoàn toàn đúng. Ví dụ như khi bạn
bị đau lưng, bạn nên tập thể dục để điều chỉnh thì tốt hơn. Nhưng nếu nỗ
lực rèn luyện để đáp ứng tham vọng của bản ngã thì chắc chắn là sai
rồi.
Có ba khuynh hướng hoàn thiện chính mình:
-
Khuynh hướng tinh tấn bao gồm những người dựa vào nỗ lực cá nhân để
hoàn thiện chính mình. Nhưng phải mất một thời gian rất dài để giác ngộ,
vì khó mà hóa giải được chấp thủ cái “ta” và “của ta” trong sự hoàn
thiện ấy.
-
Khuynh hướng đức tin bao gồm những người đặt niềm tin vào sự chỉ dẫn
của bậc thầy để hoàn thiện chính mình. Vì dựa vào niềm tin nên dễ ỷ lại
vào tha lực, nhưng không tự đắc về nỗ lực cá nhân của mình nên ít bị ý
niệm “ta” và “của ta” chi phối, do đó sẽ giác ngộ nhanh hơn.
-
Khuynh hướng trí tuệ bao gồm những người dựa vào thấy biết khách quan
để quan sát, quán chiếu thực tại và khám phá thực tánh của các pháp nên
dễ dàng phát hiện ra bản chất vô ngã trong sự hoàn thiện. Vì vậy, họ
dễ giác ngộ nhất.
Hỏi:
- Xin
lỗi. Có phải vì sợ rằng nỗ lực là công cụ của bản ngã, mà phần lớn các
nước theo Phật giáo đều nghèo, trong khi các nước phương Tây nhờ nỗ
lực cầu tiến mà văn minh giàu có?
Đáp:
-
Đây quả là một vấn đề khá tế nhị, và nhạy cảm, không thể đánh giá hời
hợt qua hiện tượng bên ngoài. Thực ra, nghèo khó không chỉ dành riêng
cho những nước châu Á theo Phật giáo, mà nhiều nước châu Phi không theo
Phật giáo còn tệ hại hơn nhiều. Ngay cả ở trong các nước Âu Mỹ phồn
thịnh cũng có không ít giai cấp bần hàn cơ cực.
Phật
giáo không khuyến khích ai phải chịu nghèo khó. Chính đức Phật khen
ngợi những người làm giàu một cách chân chính bằng trí tuệ và năng lực
của mình, rồi còn biết sử dụng tài sản đó để lợi mình lợi người một cách
hợp tình hợp lý. Vậy nguyên nhân thực sự của nghèo khó không phải vì
giáo lý vô ngã của nhà Phật.
Nhân
đây tôi xin đưa ra một vài gợi ý để chúng ta cùng suy gẫm hơn là vội
vàng kết luận. Nghèo khó có thể phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau
tùy từng trường hợp như:
- Vì lười biếng, thiếu nỗ lực hoặc thiếu chí tiến thủ.
- Vì không có điều kiện thuận lợi để làm giàu như: năng lực, phương tiện, vốn đầu tư v.v...
- Vì bị các nước đế quốc, thực dân giàu mạnh xâm lăng, cai trị, bóc lột, cướp đoạt.
- Vì người thật thà chất phác đã bị những người giàu có bất lương – cường hào, ác bá – đẩy vào chỗ khốn cùng.
- Vì lương tâm không cho phép làm giàu bất chính.
- Vì đánh giá sự giàu có tinh thần (trí tuệ, đức hạnh) cao hơn sự thịnh vượng vật chất (tài sản, địa vị).
- Vì đánh giá đời sống an bình hạnh phúc hơn là sở hữu tài sản, vân vân...
Vậy tại sao chúng ta không đặt câu hỏi ngược lại để xét xem: “Bên
cạnh những cống hiến khoa học và cung ứng tiện nghi vật chất, sự giàu
mạnh của các nước phương Tây có thật sự đem lại hạnh phúc cho nhân loại
không hay chính vì cố làm giàu mà các nước công nghệ tiên tiến đã trở
thành thủ phạm hủy diệt sự sống trên trái đất chúng ta?” Xin bạn chiêm nghiệm thật kỹ lưỡng về điều này.
***Bài liên quan đọc thêm***
Sống Trong Thực Tại - Viên Minh (Lời nói đầu)
An nhiên vô sự - Viên Minh:
Tâm buông xả (upekkhā), khinh an (lahutā) và thư thái (passaddhi).Trở về thực tại - Viên Minh:
Chánh niệm (sammā sati), sống trọn vẹn với chính mình ngay tại đây và bây giờ.
Thấy biết trong sáng - Viên Minh:
Thái độ nhận thức tỉnh giác (sampajaññā) trong chánh kiến (sammā diṭṭhi).
Suy nghĩ chân thực - Viên Minh:
Chánh tư duy (sammā saṅkappa) suy nghĩ trung thực với sự kiện đang được thấy biết trong sáng.
Nhiệt tâm cần mẫn (Viên Minh):
Chánh tinh tấn (sammā vāyāma) không buông lung phóng dật theo ý đồ của bản ngã.Bình thản đón nhận - Viên Minh:
Nhẫn nại (khantī), không đối kháng với pháp bất như ý hay nghịch cảnh, nghịch nhân.
Hành xử tinh tế (Viên Minh):
Biểu hiện trong chánh ngữ (sammā vācā), chánh nghiệp (sammā kammantā) và chánh mạng (sammā ājīva).
Nội tâm tĩnh lặng (Viên Minh):
Là chánh định (sammā samādhi), không phải định trong các trạng thái tập trung tư tưởng hay xuất thần.
Ngay đó là bờ (Viên Minh):
Pháp Ba-la-mật (pāramī), mười phương diện giúp buông bỏ sự trói buộc của cái ta ảo tưởng để trả về với sự hoàn hảo nguyên thủy của tâm và pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét