HT.
Thích Thanh Từ
I.
MỞ ÐỀ
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng
sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo. Thế nên sự truyền bá của Phật giáo vì
lợi ích chúng sanh. Nếu không vì lợi ích chúng sanh, sự truyền bá ấy là vô
nghĩa lý. Chúng sanh ở đây là những người hiện có mặt, nghe hiểu được những lời
giáo hóa. Chúng ta đừng hiểu chúng sanh là những âm hồn, những kẻ chết.
Nếu
Phật giáo sống với kẻ chết, thực chất Phật giáo đã chết mất rồi. Thế mà gần đây
có một số Tăng, Ni đưa Phật giáo đi vào cõi chết. Tăng, Ni xuất hiện đông đủ
chỉ ở những đám ma chay. Phật sự quan trọng của Tăng, Ni là đưa ma cúng đám. Ðó
là nét bi thảm đang xuất hiện trên hình ảnh Phật giáo Việt Nam. Cần nói một câu
chính xác hơn: "Phật giáo độ sanh, không phải độ tử".Nếu ai cố tình
đem Phật giáo vào cõi tử, chính là kẻ làm hoại diệt Phật giáo.
II.
GIẢNG DẠY
Vì tính cách độ sanh nên những người truyền giáo có bổn phận hằng giảng dạy cho
tín đồ thông hiểu Phật giáo. Mỗi ngôi chùa là một nơi giảng dạy kinh điển, mỗi
buổi lễ là mỗi lần giảng dạy giáo lý. Có thế, người Phật tử mới biết rõ đường
lối tu hành, mới thâm nhập được giáo lý cao siêu. Phật giáo đã tự hào có một
kho tàng kinh điển dồi dào, mà người Phật tử kể cả Tăng, Ni, đa số dốt nát về
giáo lý. Lỗi ấy tại ai?
Bởi
sự truyền bá còn sơ sót yếu kém, chính Tăng, Ni phải chịu trách nhiệm. Sở dĩ có
sơ sót này, vì Tăng, Ni bận quá nhiều thì giờ lo cho người chết. Một người
chết, Tăng, Ni mất mấy ngày đêm có mặt tại tang gia, sau khi chôn cất xong,
phải mất bao nhiêu ngày trong những lễ trai tuần. Nếu chùa có đôi ba ngàn Phật
tử, thử hỏi Tăng, Ni còn thì giờ đâu lo tu học và truyền bá chánh pháp.
Quả
là chúng ta làm lệch lạc trọng trách của mình. Việc đáng làm chúng ta lại không
làm, việc không đáng làm chúng ta lại dồn hết thì giờ vào đó. Ví như người chết
đã nằm cứng đờ trong quan tài, mà ba bốn vị Tăng, Ni có khi nhiều hơn, thường
trực tụng kinh cho họ nghe, thử hỏi đã nghe được những gì?
Ðúng
theo tinh thần Phật giáo, người chết sau khi tắt thở tùy nghiệp thiện ác theo
đó đi thọ sanh, có ai còn lẩn quẩn bên quan tài để chúng ta tụng kinh cho họ
nghe. Việc làm này quả thật không đáng, mà chúng ta tốn nhiều thì giờ. Vì thế,
việc tối quan trọng là giảng kinh dạy đạo, chúng ta phải bê tha đi. Nếu thật
người chân chánh xuất gia, chúng ta phải điều chỉnh lại, đừng để đi mãi trên
con đường sai lầm như thế. Chúng ta hằng nhớ trọng trách của mình là phổ biến
chánh pháp lợi ích quần sanh, không phải vì tụng cúng để được lòng Phật tử.
III.-
DỊCH KINH VIẾT SÁCH
Kinh điển Phật giáo hiện giờ chưa được phiên dịch hết ra chữ Việt. Thế là trọng
trách Tăng, Ni còn nặng nề biết mấy. Những bản kinh chữ Phạn, sang Trung Quốc
người ta đã phiên dịch thành chữ Hán. Tạng kinh chữ Hán có mặt ở Việt Nam khá
lâu rồi, Tăng, Ni Việt Nam chưa phiên dịch được một phần mười (1/10). Cho đến
những nghi lễ tụng niệm hằng ngày cũng vẫn đọc theo phiên âm chữ Hán, quả là
một thiếu sót to tát của Phật giáo Việt Nam.
Tại
sao Tăng, Ni không dồn hết thì giờ của mình trong việc học tập để phiên dịch
kinh điển? Bởi vì Phật tử đòi hỏi việc đưa ma cúng đám, Tăng, Ni mới thiếu thì
giờ học tập. Tăng, Ni là người hướng dẫn Phật tử, tại sao chúng ta mãi để những
đòi hỏi không đáng, làm mất thì giờ vàng ngọc của người tu? Chính tại Tăng, Ni
không gan chẳng dám nói thẳng, sợ mất cảm tình, khiến tệ đoan càng ngày càng
thêm.
Ðâu
những thế, có một thiểu số Tăng, Ni lại bày biện đủ cách rối ren, khiến đã mất
thì giờ lại thêm mất thì giờ. Những kẻ này bề ngoài xem dường như thương Phật
pháp, kỳ thật họ lợi dụng Phật pháp làm kế sanh nhai. Người Phật tử dốt nát
không biết, thấy bày biện chừng nào lại càng thích chừng ấy, quả thật kẻ mù dắt
đám mù. Kinh điển là những phương thuốc độ đời, Tăng, Ni là người chịu trách
nhiệm truyền bá, mà không dồn hết thì giờ học tập phiên dịch, thật là trái với
bổn phận biết bao. Tổ tiên chúng ta khi xưa học chữ Hán, nên Tạng kinh chữ Hán
vốn không có gì khó khăn. Hiện nay chúng ta học chữ Việt, Tạng kinh chữ Hán là
một cổ ngữ không làm sao đọc được. Tăng, Ni hiện nay không cố gắng dịch ra chữ
Việt, vô tình chúng ta để giáo lý chết khô và chôn sâu trong các tủ kinh nhà
chùa.
IV.
THỌ CÚNG DƯỜNG
Khi xưa Phật còn tại thế, nếu Phật tử muốn thỉnh Phật và Tăng chúng cúng dường,
Phật đều thọ nhận. Ðúng giờ thọ trai, Phật và chúng Tăng mới đến, nghỉ ngơi
giây lát rồi thọ trai. Thọ trai xong, trong gia quyến tụ họp ngồi chung quanh
đức Phật, Ngài vì gia quyến thuyết pháp, thuyết pháp xong, Phật vì gia quyến
chúc lành, đứng dậy ra về. Thế thì người cúng dường vì Phật và Tăng chúng mà
cúng, người thọ cúng dường cũng vì gia chủ hiện tại mà thọ. Phật thuyết pháp
chúc lành cũng vì người sống hiện có mặt, đúng là ý nghĩa độ sanh. Ngày nay
chúng ta lại khác, gặp ngày tuần, ngày giỗ của cha mẹ, Phật tử thỉnh Tăng, Ni
cúng dường. Tăng, Ni thọ trai xong, vì người chết tụng một biến kinh cầu
nguyện, cầu nguyện xong ra về. Như vậy, người cúng dường vì kẻ chết mà cúng, người
thọ cúng dường cũng vì kẻ chết mà cầu nguyện.
Cả
hai điều vì người chết , quả là Phật giáo độ tử, đâu còn là nghĩa độ sanh.
Tăng, Ni đến nhà không có lợi ích gì cho người hiện tại hết, chỉ cầu lợi ích
cho kẻ quá cố, song người quá cố chắc gì có mặt ở đây, nếu người quá cố đã thác
sanh nơi nào rồi, việc làm này có phải viển vông không thiết thực chăng? Tại
sao chúng ta không giữ theo nếp xưa, thực hành đúng tinh thần cúng dường Phật
và Tăng chúng thuở trước, để ý nghĩa độ sanh được vẹn toàn, sự lợi ích cụ thể
thiết thực tròn đủ trăm phần? Trước đã quá hay, tại sao nay chúng ta lại bỏ?
Nay thật dở, tại sao chúng ta lại theo? Ở đây, chúng ta cần chỉnh lại, đừng để
đưa Phật giáo vào cõi chết, gây thêm mê tín cho Phật tử, trái với đạo lý giác
ngộ chân thật của đức Thích-ca.
Hơn
nữa, khi xưa đức Phật thuyết pháp cho dân chúng nghe, nhân nghe pháp dân chúng
liền cúng dường cơm, Phật không thọ nhận. Phật cho nhận như thế là nhờ giảng
dạy nên có cơm ăn, không phải do lòng chân thành phát tâm cúng dường của Phật tử.
Ngày nay tại sao chúng ta đi tụng kinh cho Phật tử để được cúng cơm cúng tiền,
hoan hỉ thọ nhận? Làm thế có phải đi tụng kinh thuê chăng? Có trái với tông chỉ
của Phật ngày xưa không? Ngày xưa, đức Phật cao cả thanh bạch đến thế, ngày nay
chúng ta ti tiện thấp hèn lắm vậy. Ðây cũng là một điều chúng ta phải lưu tâm
chỉnh đốn lại, đừng để những tệ tục cứ dắt mãi chúng ta trong đường mê tối.
Thậm chí hiện nay có một ít Tăng, Ni đến tận nhà Phật tử dùng đủ lời lẽ để
quyên tởi, thật đau lòng thay! Ðạo lý nào dạy những điều ấy?
V.
DĨ HUYỄN ÐỘ CHÂN
Hoặc có người nói những việc cúng đám ma chay cho các Phật tử chẳng qua
"dĩ huyễn độ chân", nhân cơ hội tang gia bối rối, chúng ta đến với họ
để có cảm tình dẫn dắt họ vào đạo. Nhưng xin đặt câu hỏi, nếu vì cảm tình đến
với đạo, mai mốt mất cảm tình thì sao? Chủ trương đạo Phật là tự giác tự
nguyện, nếu không vì lẽ tỉnh giác đến với đạo, người ấy vẫn chưa xứng đáng là
Phật tử. Huống chi, vì chiều theo cảm tình của họ, Tăng, Ni mất hết giá trị cao
thượng, thanh nhã của mình, được đôi ba người Phật tử, mà người truyền giáo mất
hết giá trị, thử hỏi việc ấy có đáng làm không? Chúng tôi đồng ý, nếu cần Tăng,
Ni đến đám ma đám tuần tại nhà Phật tử, song với điều kiện tang gia thân quyến
tụ họp lại, để nghe Tăng, Ni giảng một thời kinh, xong rồi hồi hướng công đức
cho người chết, Tăng, Ni ra về. Như thế, khả dĩ nói "dĩ huyễn độ
chân" được. Bởi vì nhân người chết, chúng ta giáo hóa kẻ sống cho hiểu đạo
lý. Ðám tuần, ngày kỵ đều nên tổ chức như thế, việc làm này không trái với chánh
pháp.
Hoặc
có người nói Phật giáo từ bi, khi giáo hóa kẻ dương là nghĩ đến người âm, muốn
làm sao cho âm dương lưỡng lợi, mới đầy đủ lòng từ. Chúng tôi đồng ý lẽ này,
nhưng trong chùa trước khi thọ trai, Phật dạy Tăng, Ni phải cúng chim đại bàng,
quỉ la-sát và các quỉ thần, không phải vì kẻ âm là gì? Mỗi chiều ở chùa hầu hết
đều dùng nghi Mông Sơn để cúng cô hồn, đâu không phải vì kẻ âm. Hằng đêm ở chùa
hai thời công phu, Tịnh độ sau đó đều phục nguyện "âm siêu dương
thới", còn gì không đủ lòng từ bi. Nếu Phật tử có lòng hiếu thảo muốn cầu
nguyện cho thân nhân, cứ đến chùa vào những thời công phu, Tịnh độ, Tăng, Ni sẽ
vì thân nhân họ cầu nguyện cho. Có thế, không mất thì giờ tu hành của Tăng, Ni,
Phật tử cũng được mãn nguyện.
Biết
tôn trọng những bậc thầy hướng dẫn mình mới gọi người ấy biết đạo đức, vì việc
riêng của mình, để bậc thầy mình mất hết giá trị cao thượng, là đạo đức chỗ
nào? Sự hướng dẫn không khéo cả thầy lẫn trò làm việc vô nghĩa, còn chuốc lấy
sự đau khổ là khác. Khi Phật còn tại thế, chúng ta có nghe Ngài đi đưa đám lần
nào đâu. Cho đến chư Tỳ-kheo môn đồ của Phật, cũng không nghe đi đưa đám lần
nào. Tại sao chúng ta hiện nay, cứ bận rộn đám ma đám tuần mãi. Thế là chúng ta
đã đi đúng đường Phật hay đã sai rồi, cần phải vận dụng công tâm xét lại điều
này. Bởi Tăng, Ni xuất hiện trong xóm làng đều do nhà có ma chay, nên bất thần
Tăng, Ni đến nhà người nào họ liền ghét sợ, coi như một điềm bất tường sắp đến
cho gia đình họ. Thật là ngày xưa xem "một vị Tăng đến là một ông Phật lại",
ngày nay thì ngược lại. Thử hỏi còn gì hổ thẹn cho bằng?
VI.
KẾT LUẬN
Chủ yếu Phật giáo độ sanh một cách thiết thực, người môn đồ Phật giáo phải thấy
rõ điều này. Tất cả hành động, mọi cuộc tổ chức đều nhằm thẳng giáo hoá chúng
sanh, bằng con đường từ bi giác ngộ. Ðem hạt giống từ bi giác ngộ gieo rắc
trong lòng mọi người là truyền bá đạo Phật. Ngược lại, đem tình cảm mê tín gieo
rắc trong lòng tín đồ, thử hỏi đây là truyền đạo gì? Vì giải thoát cho mình cho
chúng sanh, nên chúng ta đi tu, tại sao chúng ta trở thành kẻ chiều chuộng phục
vụ tín đồ để được cơm ăn áo mặc?
Quả là điều sai đạo lý
không hợp với chánh pháp, chúng ta phải gan dạ đập tan những tập tục sai lầm
ấy, đem lại con đường tu hành cao thượng thanh bai cho chính mình và huynh đệ
mai sau. Trọng trách của chúng ta không phải đóng khung trong một nhóm bổn đạo,
mà phải đem đạo giác ngộ giải thoát lại cho toàn thể chúng sanh. Làm được như
vậy mới đúng tinh thần Phật giáo độ sanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét