LỜI ĐẦU SÁCH
Phật
pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ
được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm
chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
Người
học Phật ngày nay nếu không muốn là kẻ đếm của báu cho người, phải sớm chuyển
mê khai ngộ, tự mình dấn bước làm một hành giả nói ít hành nhiều. Được thế hi
vọng có chút phần tương ưng.
Trên
tinh thần ấy, vì muốn giúp cho Tăng Ni Phật tử đi đến chỗ rốt ráo viên mãn
trong công phu tu hành, Hòa thượng Viện trưởng đã đinh ninh chỉ dạy rõ ràng chỗ
thực dụng hằng ngày của một người con Phật. Nhận thấy giá trị quí báu ấy, chúng
tôi biên tập lại những bài giảng dạy của Ngài trên những chặng đường hoằng pháp
lợi sanh, với mục đích giao hòa cùng tất cả những bạn tu, một hướng sáng trên
lối về quê xưa.
Được
sự hoan hỉ chấp thuận và chứng nghĩa của Hòa thượng Ân sư, chúng tôi xin được
gởi đến độc giả tác phẩm Phật pháp tại thế gian như một niềm đồng cảm, chia sẻ
chút kinh nghiệm tu hành của một bậc Thầy dẫn đường, đã để lại cho chúng ta
những huấn thị bằng cả cuộc đời tu tập của Ngài.
Vì
là văn nói nên tác phẩm không sao tránh khỏi những sai sót tất yếu. Mong các
bậc thức giả phủ chánh và lượng thứ cho.
Thường
Chiếu, ngày 02-02-2005
BAN
VĂN HÓA
THƯỜNG
CHIẾU
PHẬT
PHÁP RẤT CHÂN THẬT
H.T thiền sư Thích Thanh Từ
Giảng
tại Bỉ 2002
Hôm
nay, lần đầu tiên tôi đến chùa Hoa Nghiêm tại Bỉ theo lời mời của Ni sư Trụ
trì, thăm viếng chư Ni và quí Phật tử, đồng thời đáp lại lòng chân thành thỉnh
cầu của quí vị, thuyết một thời pháp. Đề tài tôi nói hôm nay là Phật pháp rất
chân thật.
Sở
dĩ tôi nói đề tài này vì có một số người hiểu lầm, tưởng đạo Phật huyền bí, khó
hiểu. Như tụng kinh Bát-nhã thấy khó hiểu nên họ cho là bí hiểm. Nếu bí hiểm
thì lời Phật dạy không có lợi ích cho chúng sanh. Vì vậy chúng tôi phải nói rõ
giáo pháp của đức Phật rất chân thật, rất thiết yếu với cuộc sống của con
người.
Phật
là gì? Phật là người giác ngộ. Hồi xưa, từ thế kỷ thứ 13 trở về trước, người
Việt Nam gọi Phật là Bụt. Sao ngày nay chúng ta lại gọi là Phật? Sự thật không
có gì lạ. Ngày xưa, vùng Luy Lâu ở miền Bắc nước ta, được các nhà buôn từ nhiều
nơi tụ hội về buôn bán, trong số đó có chư Tăng Ấn Độ theo thuyền buôn sang
Việt Nam truyền đạo. Các ngài phát âm theo tiếng Phạn gọi Phật là Buddha, dân
ta gọi trại lại thành Bụt. Điều này chứng minh Phật giáo Việt Nam đã có rất lâu
đời, không phải mới đây. Về sau này, chúng ta gọi là Phật vì gọi theo người
Trung Hoa. Chữ Buddha dịch sang tiếng Hoa là Phật-đà.
Như
vậy, Bụt hay Phật là chỉ cho người giác ngộ được viên mãn, triệt để tất cả pháp
ở thế gian, không phải giác ngộ sơ sài. Phật là bậc giác ngộ, Bồ-tát cũng là
bậc giác ngộ nhưng giác ngộ từng phần, chưa triệt để viên mãn như đức Phật.
Bồ-tát nguyên âm chữ Phạn là Bodhisattva, phát âm theo Trung Hoa là Bồ-tát hay
Bồ-đề-tát-đỏa. Bodhi là giác, sattva là phần. Bodhisattva là giác ngộ từng
phần.
Bây
giờ chúng ta được gọi là gì? Là Phật tử. Phật tử là âm từ chữ Phật nghĩa là
giác, tử là con. Phật tử là con bậc giác ngộ. Vậy Bồ-tát giác từng phần, còn
chúng ta giác một tí nhỏ thôi nên gọi Phật tử. Nhưng không biết Phật tử chúng
ta có giác chưa? Bởi giác ngộ nên Phật thấy đúng như thật tất cả pháp ở thế
gian. Thấy đúng như thật nên Phật dạy chúng ta tu, nếu chúng ta hiểu và tu đúng
pháp đó thì cũng thấy được lẽ chân thật.
Đạo
Phật là đạo chân thật. Tại sao nói chân thật? Ở đây tôi đi từng bước cho quí
Phật tử dễ hiểu, dễ nhận. Bước thứ nhất, khi đức Phật giác ngộ viên mãn rồi,
Ngài thấy rõ chúng sanh sau khi chết bị luân hồi sanh vào sáu đường địa ngục,
ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la và trời. Tại sao lại sanh trong sáu đường đó?
Vì chúng sanh mê lầm tạo những nghiệp ác nên phải rơi vào ba đường xấu, ai sáng
suốt tạo những nghiệp lành thì sẽ được sanh lên cõi lành.
Trong
vòng luân hồi sanh tử, muốn được sanh chỗ lành thì phải tu nhân lành. Phật dạy
chúng ta phải y cứ vào lý nhân quả. Còn đi trong luân hồi lục đạo là lý luân
hồi. Như vậy luân hồi trong lục đạo do nghiệp dẫn nên gọi là nghiệp báo. Nhân
quả, nghiệp báo, luân hồi, là những bước đầu người Phật tử phải tu. Nhân đã gây
thì quả phải chịu, đức Phật không hứa ai tin Ngài, cầu xin Ngài thì Ngài sẽ ban
cho phước lành. Phật không hứa sao Phật tử cứ lạy cầu cho con được cái này,
được cái kia? Nếu Phật ban phước xuống họa thì không có nhân quả nữa. Thế nên
quí vị phải hiểu rõ điều này, mà tự chịu trách nhiệm về những hành vi tạo
nghiệp của mình.
Như
Phật tử muốn đi xa, trước khi đi thắp hương cầu Phật gia hộ cho con đi đường
được bình an. Đó là tốt rồi. Nhưng ra đường gặp ai nói những chuyện trái ý
mình, quí vị nổi tức chửi lộn với họ. Lúc đó bình an không? Phật có chen vào
can thiệp được không? Không. Chúng ta bị những hoạn nạn, khó khăn là vì lòng
nóng giận của mình, không làm chủ được. Không làm chủ được mình mắng người ta,
người ta chửi lại mình. Gieo nhân nào phải chịu quả nấy, chớ Phật không chen
vào can thiệp được.
Phật
dạy chúng ta tu là bỏ tham, bỏ sân, bỏ si. Phật tử không chịu bỏ, cứ nhờ Phật
gia hộ cho được bình an, cho mọi tai nạn đều hết, Phật gia hộ được không? Phật
dạy lẽ thật, mà lẽ thật thì khô khan, đòi hỏi trí tuệ và sức tự chủ của chúng
ta nên ta ngán thực hành. Còn nói cầu Phật, Phật sẽ ban cho đủ thứ hết thì Phật
tử vui lắm, vì chúng sanh có bệnh yếu đuối, giải đãi, ỷ lại, không muốn tự lực
mà chỉ thích ai đó làm giùm mình. Đức Phật nói lẽ chân thật mà chúng ta đi quá
xa lời Phật dạy. Từ lời dạy chân thật đó, lần lần chúng ta biến Phật thành ông
thần, ông Thánh và vì thế đạo Phật trở thành đạo của mê tín hoặc thần bí, tà
ngoại.
Tại
sao chúng ta có thái độ lệch lạc đó? Tại vì chúng ta yếu đuối, sợ sệt. Sợ cái
này, sợ cái nọ, sợ cái kia, nên lúc nào cũng muốn trông cậy bề trên che chở cho
mình. Nếu không có bề trên che chở thì sợ quá đi. Dù Phật nói Ngài không ban
phước xuống họa, mà cũng cứ xin Phật hoài hoài. Nếu xin được thì nói Phật linh,
nếu xin không được thì nói Phật không thương mình. Đức Phật lúc nào không
thương chúng sanh? Phật thương tất cả chúng sanh không bỏ rơi người nào. Phật
thương muốn độ hết tất cả, nhưng vì chúng ta không hiểu lời Phật dạy, không ứng
dụng đúng rồi tưởng Phật không thương. Nên trong kinh nói: “Phật ái chúng sanh
như mẫu ái tử”, Phật thương chúng sanh như mẹ thương con.
Như
người muốn được một mẫu bắp tốt, cứ ra chắp tay lạy trời hoài, mà không chịu
gieo giống. Quí vị tưởng chừng nào được? Không có nhân thì không bao giờ có
quả. Nhân không gieo mà đòi quả là chuyện không bao giờ có. Cũng thế, nhiều
Phật tử không chịu gieo nhân mà đòi quả, đó là sai lầm. Muốn có một thửa bắp
trúng nhiều hột, trước chúng ta phải lựa hạt giống tốt, rồi gieo trồng chăm sóc
kỹ lưỡng, sau mới có kết quả bắp tốt.
Chúng
ta kiểm nghiệm lại thế gian không có gì ngoài nhân quả. Nhân quả là chân lý
trong cái tương đối, là một sự thật không chối cãi được. Phật tử không tin nhân
quả thì không thể gọi là trung thành với Phật được, vì lời Phật dạy chúng ta
không làm theo. Cũng như cha mẹ dạy con, đừng tập theo mấy đứa ngỗ nghịch hút á
phiện, xì ke, ma túy. Cha mẹ dạy vậy, đứa con có hiếu nào lại theo đám hư hỏng
kia chơi không? Nếu nó chơi với bạn hư thì đâu thể gọi là có hiếu được. Cũng
vậy, nếu là Phật tử chân chánh, chúng ta phải thực hành đúng lời Phật dạy.
Không có cái gì tốt xấu đến với chúng ta một cách ngẫu nhiên, mà đều có nhân có
quả cả.
Có
khi nào ta không ghét người đó, mà người đó lại hung dữ với mình không? Phải có
thù oán với nhau mới có làm hung làm dữ. Đời này hoặc đời trước đã gây thù oán
với nhau, bây giờ mới gặp lại, nhân quả không phải chỉ có một đời thôi. Nhân
quả trải qua tới ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Ba đời đó liên hệ với nhau.
Có những nhân mình gây đời trước, đến đời này mới trả quả. Có những nhân làm
ngay đời này, đời này hưởng quả liền. Có nhân làm trong đời này nhưng đời này
chưa được hưởng quả. Nó khác biệt như vậy, chớ không phải nói nhân quả là có
liền.
Nhiều
người cứ than thở tại sao tôi làm lành, mà cứ gặp những vui buồn, tai nạn hoài.
Nghĩ như vậy rồi nói không có nhân quả hay nhân quả không thật, không đúng. Như
trong phố có một căn nhà bán, người khác lại mua. Họ làm ăn rất siêng năng
nhưng cuối năm hỏi anh chị dư dả không, người đó nói tôi làm một năm rồi mà vẫn
còn thiếu nợ. Lạ chưa! Tại sao làm ăn khá mà thiếu nợ? Truy nguyên ra khi mua
căn nhà đó họ phải vay tiền. Làm ăn khá trả được phân nửa hoặc một phần ba, còn
nợ lại phân nửa hoặc hai phần. Chớ không phải làm ăn khá liền hết nợ.
Cũng
vậy, chúng ta làm lành nhưng nợ cũ còn, trả chưa hết thì quả lành chưa tới kịp.
Khi nào chúng ta trả hết nợ cũ quả lành mới đến. Cũng như người mua nhà kia, ít
ra phải hai ba năm làm ăn siêng năng cần mẫn, trả hết nợ rồi mới có dư. Đó là
một lẽ thật. Cho nên đối với lý nhân quả, chúng ta phải nhìn xuyên từ quá khứ,
hiện tại đến vị lai. Có khi hiện giờ chúng ta làm những điều rất tốt, mà chưa
có quả tốt vì chưa tới giai đoạn chín muồi, phải qua đời sau mới hưởng được. Không
bao giờ nhân tạo mà mất, nó vẫn còn nhưng đủ thời kỳ chín muồi mới thu gặt kết
quả. Trong nhà Phật luật nhân quả được khẳng định, chớ không phải chuyện mơ hồ.
Đó là một lẽ thật, không nghi ngờ gì nữa. Vì vậy tôi nói Phật pháp là lẽ chân
thật.
Kế
đến nói về luân hồi. Luân là bánh xe, hồi là lăn tròn. Bánh xe lăn tròn lên
xuống, lên xuống trong sáu đường hoài gọi là luân hồi. Trong kinh Phật nói, nếu
đời này ta tạo nghiệp lành đời sau sanh vào cõi lành, tạo nghiệp dữ đời sau
sanh vào cõi dữ. Hiện tại chúng ta làm lành, làm dữ thì nghiệp lành dữ đó sẽ
dẫn ta sanh ở chỗ lành hay chỗ dữ. Điều này có thật không? Nói gần, như một gia
đình sanh ba bốn đứa con, cũng người cha người mẹ đó mà mấy đứa con sanh ra
giống nhau không? Đứng về mặt thể xác có phần giống một chút, nhưng về tâm lý
thì mỗi đứa có khác. Đứa thích môn này, đứa thích môn kia, không giống nhau.
Phải cha mẹ dạy không? Không. Phải thầy cô dạy không? Cũng không. Mà chính là
tập nghiệp của quá khứ. Đời trước người đó là thợ mộc thợ hồ, nay sanh ra những
việc thủ công họ làm giỏi lắm. Nếu người đó là nhà văn, bây giờ đi học văn
chương giỏi. Ngày xưa là nhà toán học, bây giờ học toán rất mau. Chúng ta mới
thấy có những vị thần đồng về âm nhạc, về toán… Như vậy biết rằng quá khứ của
chúng ta, còn mang theo đến đời này chớ không phải hết.
Cũng
thế đời này chúng ta tạo nghiệp lành, nghiệp tốt, thì đời sau được sanh vào cõi
lành, cõi tốt. Nếu tạo nghiệp ác thì đời sau sanh chỗ ác. Đó là lý luân hồi.
Luân hồi từ nghiệp dẫn đi, không phải bỗng dưng mà có. Đạo Phật nói nghiệp là
do hành động của mình tạo, được lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống, nên
nghiệp chính là thói quen. Nghiệp lành, nghiệp dữ đều do chúng ta huân tập,
không phải trời xui đất khiến mình khổ, hay trời xui đất khiến mình vui. Không
có cái khổ vui từ bên ngoài đến, mà chính ở nơi mình. Nghiệp là một lẽ thật,
không phải chuyện mơ hồ. Ai cũng tạo nghiệp, chỉ khác nhau là lành hay dữ thôi.
Nghiệp
nào sẽ dẫn đi trong ba đường ác, nghiệp nào sẽ dẫn đi trong ba đường lành?
Chúng ta chiếu theo năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không nói dối,
không tà dâm, không uống rượu say, không hút á phiện, xì ke, ma túy. Đó là năm
điều lành để bảo đảm dẫn chúng ta đi đường lành, đường lành thấp nhất là cõi
người. Năm giới này phạm hết thì đi ba đường dữ.
Nếu
người giữ giới không sát sanh, đời sau sanh ra được khỏe mạnh sống lâu. Không
trộm cướp đời sau sanh ra của cải nhiều. Không nói dối, không nói lừa ai, nói
đúng lẽ thật, đời sau sanh ra nói năng lưu loát, ai cũng quí cũng tin. Không tà
dâm sống hạnh trinh bạch, bảo vệ hạnh phúc gia đình mình và gia đình người, đời
sau sanh ra đẹp đẽ, gia đình yên ấm. Không uống rượu, không uống say, không hút
á phiện xì ke ma túy, đời sau sanh ra sáng suốt. Rõ ràng nhân và quả theo nhau,
không phải ngẫu nhiên người này sanh ra khôn ngoan, người kia sanh ra tăm tối.
Tất cả đều có nhân duyên hết. Bởi vậy Phật dạy chúng ta tu để trở lại làm người
tốt. Đó là luân hồi đúng theo nhân mình đã tạo, còn cái dẫn chúng ta đi vào các
cõi gọi là nghiệp.
Hiện
đời chúng ta có chứng thực được lý luân hồi này. Như quả địa cầu đang quay hết
sáng tới tối, hết tối tới sáng. Quay như vậy là luân hồi. Trong con người chúng
ta máu từ tim chảy đến khắp lục phủ ngũ tạng, rồi từ lục phủ ngũ tạng chảy về
tim. Ra vào, ra vào lẩn quẩn như thế nên gọi là luân hồi. Như vậy từ địa cầu,
từ bản thân, từ tâm niệm chúng ta, đều đi theo chiều hướng luân hồi. Nhiều
người không hiểu, tưởng luân hồi là cái gì huyền bí. Sự thật nó như vậy.
Thấy
được lý luân hồi, nhân quả chúng ta còn sợ sệt nữa không? Sợ ai? Thường thường
sợ là sợ ai đó hành mình. Nhưng bây giờ chính ta là chủ nhân tạo ra mọi hoàn
cảnh cho mình, thì còn sợ ai nữa. Có sợ chăng là sợ mình không tạo nghiệp lành
lại đi tạo nghiệp dữ. Không ai muốn mình khổ cả, vì thế chúng ta phải tạo nhân
lành để tránh khổ, được vui chứ!
Như
vậy, đạo Phật cho chúng ta quyền quyết định hoàn toàn, không ai chen vô hết,
không phải trời Phật can thiệp vào. Con người khổ quá thường kêu trời, lẽ ra
phải kêu mình mới đúng. Tại sao hồi xưa mình ngu tạo nghiệp dữ để bây giờ chịu
khổ như vầy. Hiểu thế mới hối hận ăn năn sám hối chừa cải. Còn kêu trời, đổ
thừa trời thì không nhận phần lỗi về mình, không chịu trách nhiệm về những hành
vi mình đã tạo ra trước đó.
Chúng
ta gặp khổ lại đổ trách nhiệm ở một đấng nào, điều này đúng không? Không đúng.
Biết tất cả tốt xấu, hay dở đều do mình tạo, ta nhận lấy trách nhiệm về mình.
Đó là lẽ thật. Biết nhận lấy trách nhiệm để sửa là khéo tu. Còn không nhận
trách nhiệm, cứ theo đà cũ oán hờn, thù hận là chưa biết tu. Người tu phải sáng
suốt, biết rõ những gì ta lỡ tạo phải can đảm nhận, chớ không đổ trút cho người
khác.
Phật
tử học Phật rồi, thấy được trách nhiệm đối với mình, với nghiệp quá khứ đã gây
tạo. Gặp cảnh khổ ta không kêu trời kêu đất, chỉ cười vì biết hồi xưa ngu dại mình
tạo nhân này, nên bây giờ gặp quả đây. Ngày nay ta không tạo mà gặp cảnh xấu
thì biết đây là quả ngu dại từ đời trước. Bây giờ phải ráng ăn năn sám hối. Nếu
người gặp cảnh vui, làm gì cũng thành công thì không nên tự hào. Tự biết nhờ
hồi xưa biết tu, biết làm lành nên bây giờ gặp cảnh tốt. Nghĩ thế càng gắng làm
lành, không ngạo mạn tự cao. Có bỗng dưng được đâu mà ngạo mạn, đây là công của
mình từ trước. Người biết tu rồi đứng trong xã hội rất vững vàng.
Người
tin được nhân quả có can đảm không? Dám nhận trách nhiệm, không đổ thừa ai hết
là can đảm. Do biết nhân quả, can đảm nhận hết những xấu dở để sửa mình, điều
hay tốt cố gắng thêm lên. Hiểu đúng tin đúng như vậy, có giác ngộ không? Có
giác ngộ chút chút nên nói là con Phật. Học Phật, bước đầu chúng ta phải nhận
định cho thật thấu đáo, nếu không sẽ giống như người thế gian có bệnh nhát
nhúa, hay đổ thừa. Việt Nam ta có những câu ca dao rất hợp lý nhân quả:
Bởi
chưng kiếp trước khéo tu,
Ngày
nay con cháu võng dù nghênh ngang.
Ông
bà mình thấy rõ luật nhân quả. Sở dĩ ngày nay được tốt là tại hồi trước mình
khéo tu. Ngày nay bị xấu là tại hồi trước mình không khéo tu, chớ có gì đâu.
Phật tử mà không giác chút nào hết thì không phải là Phật tử, chỉ là kẻ tu mù
thôi.
Tất
cả quí Phật tử từ trước tới giờ sống đúng tinh thần nhân quả hay sống ỷ lại?
Phần nhiều ỷ lại quí thầy, quí cô. Thôi kệ, làm ăn có tiền lâu lâu đem vô chùa
cúng. Mình có tai nạn quí thầy cầu an cho, có chết quí thầy cầu siêu, khỏi lo
tu. Đó là hoàn toàn ỷ lại. Ngày nay Phật tử hiểu đạo rồi, đừng quan niệm như
thế nữa, mà phải thật tu. Chư Tăng Ni là người đi trước, chỉ cho chúng ta đường
lối tu, chớ không phải gánh hết những gì chúng ta làm. Nhiều Phật tử nói tôi
cúng chùa nhiều quá, bây giờ tai nạn dồn dập, không ai thương. Nghĩ như vậy là không
hiểu đạo Phật hay hiểu không đúng đắn. Đạo Phật là đạo chân thật, chỉ lẽ thật
cho chúng ta, chớ không dạy cái gì huyền hoặc, xa lạ với con người.
Phật
dạy nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, để chúng ta tu ngay trong đời này và những
đời sau. Nhưng đạo Phật không chỉ dạy tu trong sanh tử, mà còn dạy tu giải
thoát sanh tử nữa. Đa số Phật tử thấy luân hồi trong ba đường tốt là hài lòng,
ít ai muốn ra khỏi. Nhưng thật ra đạo Phật dạy phải làm sao giác ngộ cho sâu,
cho triệt để, chớ không phải giác ngộ sơ sơ như vậy là đủ. Vì thế đức Phật còn
dạy thêm các pháp tu để ra khỏi sanh tử. Đến đây tôi sẽ nói về lý nhân duyên.
Đức
Phật dạy tất cả sự vật trên thế gian này không có cái gì tự nó thành hình, mà
phải do nhiều nhân nhiều duyên tụ hợp lại mới thành. Như thế phải có hai điều
kiện. Điều kiện thứ nhất, trước khi nó tụ lại phải là Không. Ví dụ như trước
khi đem những đóa hoa cúc cắm vào bình thì bình không. Không mới cắm hoa cúc
vào được, chớ bình đầy cứng thì hết cắm hoa cúc. Như vậy trước khi cắm hoa cúc
là cái bình không. Từ cái không đủ duyên tụ lại thành bình hoa cúc. Cũng như
trước khi cha mẹ chưa sanh, chúng ta có hay không có? Lúc đó đâu có. Không có
trong bào thai cha mẹ chớ không phải không có trong vòng luân hồi. Khi đủ duyên
ta vào trong bào thai, từ từ được nuôi lớn cho tới ngày ra đời. Như vậy ngày
nay chúng ta có là từ cái không trước, rồi nhân duyên tụ hội mới thành có.
Bình
hoa này bây giờ có nhưng đôi ba bữa không còn. Sao vậy? Vì nó héo tàn, người ta
bỏ đi. Vậy những gì do duyên hợp thì có ngày tan rã. Có cái nào hợp mà không
tan đâu. Thân chúng ta đã do duyên hợp thì phải tan, phải hoại nhưng con người
lại không chịu hoại. Do đó mới khổ.
Chúng
ta lúc nào cũng muốn giác ngộ, mà lại giữ mê hoài. Nếu ngày mùng một tết âm
lịch, bạn bè tới chúc chị năm nay nghèo mạt, chúc chị năm nay đau, quí vị có
nổi nóng không? Điều đó nhất định không chấp nhận được. Song giàu nghèo là nhân
quả của mình. Chúc là chuyện nói bóng nói gió vậy thôi, có thật đâu mà nổi
giận! Nổi giận như thế là hữu lý hay vô lý? Vô lý. Còn chúc sống trăm tuổi hay
làm ăn phát tài thì vui lên liền. Mà chắc gì sống trăm tuổi, nhưng nghe chúc
thế là vui. Như vậy chúng ta đang đi trong mê hay đi trong giác? Mê. Đạo Phật
là đạo giác ngộ, mà con Phật lại đi trong mê thì nói sao đây!
Tôi
thấm thía câu chúc tết của một Hòa thượng Nhật Bản cho đệ tử: “Thầy chúc cho
các đệ tử ông nội chết, bà nội chết, rồi cha chết, mẹ chết, con chết, cháu
chết.” Ông chúc chết từ trên xuống dưới, quí vị chịu nổi không. Không ai chịu
nổi câu chúc đó. Vị cư sĩ tức quá hỏi: “Tại sao Thầy chúc cho con lạ vậy?” Hòa
thượng nói: “Thầy chúc tốt cho con đó.” Hỏi: “Tốt thế nào?” Đáp: “Con thấy già
thì ông nội, ông ngoại chết, kế cha mẹ chết, con chết, cháu chết. Đó là chết
theo thứ tự, người lớn đi trước người nhỏ đi sau. Bây giờ có nhiều người bất
hạnh cha chưa chết mà con đã chết.” Hòa thượng chúc hợp lý như vậy mà có người
nghe chịu không nổi.
Con
người sống trong tưởng tượng nhiều hơn lẽ thật. Cứ nghe những lời vuốt ve, tán
thưởng rỗng thì vui, còn lời nói thật lại buồn trách. Như vậy mới thấy chúng ta
tu mà chưa giác. Nếu giác thì dù nói khổ, nói vui gì cũng biết nói rỗng. Chẳng
qua mình tạo nghiệp lành hay dữ nên phải thọ quả, chớ có ai nói mà thành tốt
xấu cho mình được. Chúng ta không cầu cúng, mong mỏi Phật ban cho cái này, cái
nọ mà phải thật tâm chỉnh sửa lại cái xấu dở thành cái hay tốt, đó mới là thật
tu. Quí Phật tử mùng một Tết có xin Phật không? Xin thôi là xin.
Nói
thế có người thắc mắc tại sao mỗi đêm mình phải lạy Phật, nguyện này, nguyện
nọ? Phật không cho cái gì hết, tại sao chúng ta lạy rất kính cẩn? Đó là sự hiểu
lầm của người đời. Ví dụ như một nhà khoa học phát minh được một công thức lý
hóa hay toán học. Từ khi họ mò mẫm cho tới ngày phát minh trải qua nhiều thời
gian rất cực khổ, phải bóp đầu bóp trán mới được. Khi thành công thức rồi,
chúng ta học và ứng dụng công thức đó chỉ năm mười ngày là thuộc. Nhờ công của
người phát minh nhọc nhằn, khó khăn, sau này chúng ta biết thực hành được nhẹ
nhàng và có nhiều lợi ích, cho nên ta mang ơn kính trọng người đó, đâu có gì
phải ngạc nhiên. Đây là điều hoàn toàn hợp lý.
Cũng
vậy, hồi Phật mới đi tu chưa giác ngộ, trải qua bao nhiêu năm khổ hạnh, phải
ngồi dưới cội bồ-đề bốn mươi chín ngày đêm mới được giác ngộ. Bây giờ Ngài dạy
lại chúng ta những điều Ngài đã giác ngộ như nhân quả, nghiệp báo, luân hồi,
chỉ chưa tới một giờ đồng hồ, ta đã hiểu hết rồi. Vì vậy chúng ta kính trọng
Phật đã gieo cho chúng ta mầm giác ngộ. Chúng ta lạy Phật vì rất quí, rất trọng
chỗ Ngài giác ngộ và ân đức Ngài đã giáo hóa giúp chúng ta cùng được giác ngộ
như Ngài, chớ không phải lạy Phật để xin. Ngài đã tuyên bố Ngài không cho mà.
Hiểu như vậy chúng ta mới thấy ý nghĩa của sự tu hành.
Theo
lý nhân duyên tất cả những gì có hình, có tướng ở thế gian này đều không thật.
Đã do duyên tụ thì cũng do duyên tán. Ngày nay đủ nó hợp, ngày mai thiếu nó
tan. Đó là lẽ thật. Lẽ thật như vậy mà chúng ta chịu tụ, chớ không chịu tán là
mình vô lý. Thân này đủ duyên nó tụ, hết duyên nó hư hoại. Đủ duyên thì còn hết
duyên thì mất, đó là chuyện bình thường, có gì phải sợ.
Chúng
ta biết có tụ thì phải có tan, đó là một lẽ thật không chối cãi được. Đã là lẽ
thật sợ cũng không được, cũng không khỏi, chỉ còn khéo tu thôi. Như hiện giờ ta
được thân tốt, muốn ngày mai nó tan rồi tụ lại cũng tốt thì phải tạo duyên nghiệp
tốt. Cái gì đến thời kỳ hoại phải hoại, chúng ta có sợ, có khóc mấy cũng hoại
thôi. Biết rõ vậy, ngày mai chết ta cũng chỉ cười, hết duyên thì đi có gì đâu
mà sợ.
Người
hiểu đạo rồi sống ung dung tự tại, không hoảng sợ gì hết. Ai nói chi cũng không
sợ, vì mình biết rõ lẽ thật, không chạy trốn nơi đâu được. Quí vị làm hết bổn
phận của mình, tới ngày hết duyên thì cười đi. Như vậy tốt không? Còn lo sợ,
rên rỉ khóc lóc có được gì, chỉ làm tâm tư rối loạn thêm. Tâm tư càng rối loạn
con đường trước càng mờ mịt, khó chọn được nơi tốt. Như vậy có phải nguy hiểm
hơn không!
Biết
thế rồi chúng ta dễ tu hay khó tu? Có gì khó! Bởi mình biết con người ai cũng
tới chỗ chết, có sanh phải có tử. Trong khi sanh đây mà sơ sảy một chút là bước
vào cửa tử liền. Ví dụ đi xe lỡ tay đụng ầm một cái, rồi. Đó là cửa tử đã chực
mở ra, không kịp để lo âu sợ sệt nữa. Từ lo âu sợ sệt, nhiều người chạy đi coi
bói xem năm nay tuổi tốt hay xấu, đủ thứ. Như vậy Phật tử tin Phật hay tin quỉ
thần? Tin lời Phật thì phải tu sửa chuyển đổi từ xấu thành tốt, mới đúng là
Phật tử. Nhờ Phật dạy chúng ta mới giác, có giác một chút mới ứng dụng tu. Ứng
dụng tu là tin Phật và tu như lời Phật dạy.
Thân
này do duyên hợp thì thành, duyên tan thì mất. Nó có rồi mất, có rồi mất nên
thân không thật. Từ không duyên hợp thành có, từ có hết duyên trở về không. Xác
định vậy, chúng ta không còn tham sống tới trăm tuổi nữa. Hồi xưa mấy ông vua
còn muốn phải muôn muôn tuổi kìa, nên bắt thần dân tung hô “Vạn vạn tuế”. Người
nay chúc bá niên là một trăm năm, nhưng sự thật mấy người sống được tới tuổi
đó. Chúc là chúc rỗng vậy thôi, mà thiên hạ lại thích chúc rỗng, không chịu
nhìn lẽ thật. Đã duyên hợp thì phải tan, thân này không thật nên ai nói hơn nói
thua, nói phải, nói quấy, có gì quan trọng.
Biết
thân không thật, có ai nói anh hay chị xấu, dễ ghét… có buồn không? Thân này đã
giả thì những lời khen chê cũng giả, cũng hư dối thôi. Giả sử có ai chửi bới,
ta nên cười hay nên giận? Thân không thật thì chửi đó cũng rỗng, có gì để giận.
Vậy mà ai nói nặng một câu thì giận năm bảy ngày chưa quên. Cái không thật mà
ôm ấp giận, có phải khờ dại không? Cho nên thấy được thân không thật rất dễ tu,
nhưng nếu thấy thân thật thì tu rất là khó.
Giả
sử như bữa ăn thông thường của quí vị phải có muối tiêu, muối ớt. Hôm nào lỡ
không có nó thì quí vị thấy khó ăn. Tại sao khó? Thân không thật, thức ăn tạm
dùng cho qua ngày, đâu có gì quan trọng. Nhưng vì chúng ta đặt cái ngon cái dở
lên trên nên thấy bực bội. Thân đã không thật thì vật thực nuôi nó cũng đâu có
thật. Vậy mà ăn không ngon mặc không đẹp thì buồn. Phật tử thấy thân giả mà lại
buồn giận những cái không đáng, đó là chưa khéo tu. Bởi vậy người xưa tu sống
rất đơn giản, cảnh nào các ngài cũng hoan hỉ vì thấy thân không thật. Còn chúng
ta bây giờ sống đòi cái này, cái kia, thua kém ai một chút là buồn bực.
Dù
chúng ta có nuôi dưỡng cưng chiều cho thân sung túc, nhưng rồi cũng không giữ
được nó, vậy cưng chiều quá làm chi. Ta chỉ nên mượn thân để tu, tu cho khéo
cho hay. Từ phương tiện tạm bợ này, ta tiến lên được những bậc cao siêu hơn.
Chớ còn nuôi dưỡng thân giả này dù trải qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp cũng
chỉ ở trong vòng trầm luân sanh tử, không có lợi ích gì.
Trong
kinh Phật thường nói, pháp của Phật như chiếc bè để qua sông. Nhờ nó chúng ta
qua được bờ giác ngộ, chớ không theo giữ nó hoài. Nếu quí vị biết chắc thân này
không thật thì giác ngộ kha khá, cũng phần giác tức là Bồ-tát. Khi giác ngộ
chúng ta đọc kinh Kim Cang không khó. Trong kinh Phật nói:
Nhất
thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.
Nghĩa
là tất cả những pháp có hình tướng sanh diệt đều giống như mộng, như huyễn hóa,
như điện chớp, như sương mù, có đó rồi mất đó. Nhìn như thế là nhìn bằng con
mắt giác ngộ. Thấy thân này thật là đang mê. Bây giờ chuyển thấy thân này giả,
tốn chừng bao nhiêu công? Có gì ngăn trở không? Đâu có gì ngăn trở. Chúng ta đủ
thẩm quyền chuyển mê thành giác, vậy mà không chịu chuyển, rồi than Phật không
thương. Chúng ta không chịu chuyển, Phật thương sao được! Từ mê chuyển thành
giác rất nhẹ nhàng, chỉ đổi cái nhìn là được.
Thấy
thân duyên hợp hư giả, ai nói gì mình cũng cười, không quan trọng chi hết. Cuộc
sống đạm bạc thế nào cũng tốt, lúc nào ta cũng chỉ nhớ cố gắng tu, cố gắng vươn
lên. Đó là con người giác ngộ, dù chưa viên mãn nhưng cũng là Bồ-tát. Vậy
Bồ-tát với phàm phu cách nhau bao xa? Cách nhau giữa mê và giác. Mê, giác từ
trong tâm đổi là xong. Từ mê chuyển thành giác không phải trèo non lội suối gì
hết, chỉ đổi cái nhìn thôi. Dễ không? Vậy mà Phật tử than “tu khó quá”. Phật
đâu có bảo quí vị gánh đá lên núi, mà than gánh không nổi. Chỉ đổi cái nhìn sai
lầm qua cái nhìn giác ngộ, gọi là chuyển mê thành ngộ. Chuyển một cái là xong,
giống như trở bàn tay từ úp lật lên là ngửa vậy. Cho nên việc tu hết sức dễ.
Quí
Phật tử hiểu đạo rồi nên cố gắng thực hiện tinh thần giác ngộ của đạo Phật.
Tinh thần đó là tinh thần đúng chân lý, không phải tinh thần dọa dẫm hay dụ dỗ
gì hết. Đức Phật nói đúng lẽ thật cho chúng ta nhận ra, nhận ra lẽ thật rồi,
ứng dụng tu hành dễ chớ không khó. Chỉ vì ta chưa hiểu nên tu khó, hiểu rồi tu
không khó. Khi tu, lâu lâu chúng ta phải tự kiểm lại xem mình có giác chưa.
Nhiều người đọc kinh Kim Cang không hiểu, vì thấy thật mà Phật nói giả, thành
ra lời Phật dạy không dính với quí vị. Bây giờ nếu hiểu căn bản từ lý nhân
duyên, chúng ta thấy đó là lẽ thật, không phải Phật suy lý mà nói.
Có
người lại nghi, nếu thấy các pháp như huyễn hóa, người ta chán đời không muốn
làm gì nữa? Thấy cái gì cũng giả dối tạm bợ, thôi nhịn đói chết cho rồi. Đó là hiểu
sai lầm. Đạo Phật dạy chúng ta giác ngộ, khi giác ngộ rồi nhìn lại người mê mới
thấy thương. Người đời giành giựt hơn thua với nhau, nên có thương nhau cũng
gượng mà thôi. Có những gia đình cha mẹ chết chia gia tài không đều, con cái
oán hận, chớ thương gì. Rõ ràng tình thương đó không thật.
Chúng
ta biết rõ cuộc đời như vậy, mình không còn vướng mắc, bận bịu nữa thì thấy
những người đang vướng mắc, đang bận bịu mình thương. Thương là thương cái mê
của họ. Vì chúng sanh mê mà Phật phải thương, tình thương ấy mới thật sự công
bằng. Một ông Tổng thống mê Phật cũng thương, chớ không phải chỉ thương người
nghèo, người giàu không thèm thương. Tình thương chân thật là thương kẻ mê sau
khi mình đã giác. Do thương nên tạo điều kiện hướng dẫn người còn trong mê. Đó
là thực hiện lòng từ bi. Chúng sanh còn mê còn khổ, ta giác một mình sao được.
Như trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A-nan phát nguyện: “Như nhất chúng sanh vị
thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê-hoàn”, nghĩa là nếu còn một chúng sanh chưa
thành Phật, con nguyện không nhập Niết-bàn. Phật và Bồ-tát thương chúng sanh là
thương cái mê của họ, chớ không phải thương giàu nghèo. Khi mê thì giàu nghèo
gì cũng mê, nhiều khi giàu còn mê đậm hơn nữa. Vì vậy Bồ-tát thương hết, không
bỏ một ai. Thương và cứu độ hết lòng thì đâu thể nói tiêu cực yếm thế được.
Tất
cả chúng ta học Phật, hiểu Phật rồi, dù không phát tâm Bồ-tát, nhưng thấy người
mê cũng đáng thương. Câu kinh đức Phật dạy, tôi không bao giờ quên là: “Cái khổ
ở địa ngục cũng chưa phải là khổ. Cái khổ ở ngạ quỉ đói khát cũng chưa phải là
khổ. Cái khổ súc sanh, làm trâu làm ngựa kéo cày kéo xe cũng chưa phải là khổ.
Chỉ si mê không biết lối đi, đó mới thật là khổ.” Vì những cái khổ kia còn có
ngày ra khỏi, còn khổ si mê này không biết chừng nào ra khỏi, cứ chìm trong
sanh tử muôn kiếp. Cho nên cái khổ của luân hồi sanh tử là cái khổ lớn nhất.
Chúng sanh còn mê là còn sanh tử, đây là cái đáng sợ nhất. Nhưng chúng sanh chỉ
sợ nghèo, sợ thua người ta mà không sợ mê nên mới đáng thương. Người tu Phật sợ
cái mê nên tránh, cầu được giác ngộ. Đó mới thật là người tu Phật.
Phật
tử tụng kinh Bát-nhã thuộc lòng, trong đó Phật dạy: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, độ nhất thiết khổ ách”, nghĩa là người soi thấy năm uẩn không thật, liền
qua hết các khổ nạn. Ngũ uẩn là gì? Sắc uẩn là vật chất, tức thể xác. Thọ,
tưởng, hành, thức là tinh thần. Những thứ đó nguyên trước nó là không, duyên
hợp giả có. Biết rõ nó có trong cái giả dối không thật, thì qua hết các khổ
nạn. Quí vị thuộc Bát-nhã mà không chịu chiếu kiến, không chịu xem xét nên khổ
nạn tới hoài, rồi nói Phật dạy không linh. Phật nói độ tất cả khổ ách, mà sao
tới giờ tôi không độ được khổ nào hết? Đó là vì chúng ta không tu theo Trí tuệ
Bát-nhã. Chớ khéo tu đúng như lời Phật dạy, chúng ta sẽ thấy hay đáo để, lời
Phật là lời vàng. Phật nói lẽ thật triệt để, chúng ta cạn cợt nông nổi nên
không thấy tới cái triệt để. Do không thấm, không biết nên nghĩ đọc kinh Phật
cho có phước vậy thôi, chớ không hiểu lời Phật dạy. Không hiểu thì đâu có ứng
dụng tu, cho nên khổ hoài.
Nên
biết rõ thứ nhất là nhân quả, thứ hai là nghiệp báo, thứ ba là luân hồi. Đây là
ba điều tu còn ở trong luân hồi, để chọn luân hồi trong ba đường lành. Nếu
người biết đúng lý này, tạo nghiệp lành sẽ sanh vào đường lành. Nhưng trong
kinh Phật không khuyến khích chúng ta lên cõi trời. Tại sao? Vì lên đó sướng
quá, muốn gì được nấy, muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, muốn đi chơi được đi
chơi. Do không thấy khổ nên không phát tâm tu. Nơi nào có khổ có vui chúng ta
mới thức tỉnh, mới phát tâm tu. Lên cõi trời điều gì cũng thỏa mãn hết, vì vậy
khó tu. Chỉ ở cõi Ta-bà này khổ vui đầy đủ, chúng ta dễ tỉnh, dễ đánh thức
mình. Trên trời có một chiều, ăn uống vui chơi thụ hưởng đến khi hết phước, rớt
xuống cõi khổ. Sống trong cảnh khổ lại ráng tu để được lên trời, lên đó rồi tuột
xuống nữa. Cứ như vậy lên xuống hoài, không ra khỏi trầm luân sanh tử. Người
biết tu nên tìm một con đường chân thật, ra khỏi vòng luân hồi sanh tử.
Đức Phật đã khổ công
tìm ra ánh sáng của đạo chân thật, bây giờ Ngài dạy lại chúng ta. Con đường khó
khổ Phật đã gánh chịu hết, mình chỉ tu học theo những gì Ngài tìm ra và chỉ dạy
lại, đỡ mất thời gian, đỡ tốn công sức khó nhọc biết bao nhiêu, chỉ có ứng dụng
pháp Phật dạy để tu, dễ quá chừng. Vậy mà chúng ta không chịu tu thì thật là
đáng trách, đáng thương làm sao! Mong tất cả quí vị nghe tôi nói, cố gắng tu
hành theo giáo pháp chân thật của đức Phật đã dạy, để dứt khổ được vui.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét