Trong chùa, có một
anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để
ý đến anh ta. Anh ta lo mấy sào vườn ở sau chùa, lúc thì trồng rau, lúc thì trồng
đậu, làm việc rất là siêng năng. Lúc rảnh, anh ta vào bếp giã gạo và vào những
ngày sóc vọng, chùa đông khách, anh ta giúp việc dưới bếp, và rửa bát ở bờ ao cạnh
bếp.
Vì anh ta câm, nên
chẳng ai nói với anh và nếu có việc cần nói thì phải ra hiệu. Hết việc, tối nào
anh cũng quanh quẩn ở trên chánh điện, quét dọn, lau chùi, và mỗi năm vào kỳ Kết
hạ, mỗi lúc có khóa giảng thì anh ta cầm chổi đứng gần cửa phòng hội, ra vẻ
đang quét nhà, nhưng thật ra là nghe giảng kinh …
Một ngày kia, không
thấy anh, vị tri sự bước vào căn phòng nhỏ xíu của anh ở góc vườn, lúc đó mới
biết rằng anh câm bị đau, sốt nặng không dậy được. Vị tri sự trình Tổ và mọi
người thấy Tổ vào thăm anh câm. Ngài ngồi với anh rất lâu và khi Ngài trở về
phòng, nét mặt trang nghiêm của Ngài thoáng vẻ hân hoan.
Từ hôm ấy, chú tiểu
ngày hai ba lần mang cháo vào cho anh câm và Tổ mỗi khi xuống thăm thì ngồi cả
giờ, mọi người cho rằng anh câm có phúc, được Tổ thương và nếu có mệnh hệ nào
thì được Ngài độ cho.
Vào đúng giờ Ngọ
hôm đó, người ta thấy Tổ chậm rãi bước ra khỏi phòng anh câm và khi Tổ nhận thấy
mọi người chắp tay vây quanh thì Tổ nói rất ngắn: “Ngài đã viên tịch rồi”.
Ai ai cũng tỏ vẻ ngạc
nhiên: Tổ gọi anh câm cuốc vườn là Ngài! Tổ là một thiền sư đạo hạnh nổi tiếng
không những trong vùng, mà ngay cả ở chốn kinh kỳ xa xôi nữa. Nhưng không ai
dám hỏi Tổ cả.
Cho đến khi làm lễ
hoả thiêu xong, bài vị của anh câm đã được đặt trên chùa, và khóa cầu siêu thường
lệ chấm dứt, mọi người được nghe Tổ nói như sau:
“Thật ra, vị chấp
tác làm vườn ở chùa ta là một vị tăng, không những là một vị tăng ở kiếp này,
mà là từ kiếp trước. Kiếp trước, Ngài tu hành tinh tấn, nhưng Ngài vẫn tái sinh
làm kiếp người, chưa lên được cõi trên vì nghiệp của Ngài còn nặng. Kiếp này,
Ngài lại tu nữa, và do ta giúp đỡ, Ngài biết rằng Ngài chưa xóa được khẩu nghiệp.
Vì thế Ngài phát nguyện tu tịnh khẩu nghiệp. Ngài tịnh khẩu, ai cũng tưởng là
Ngài câm. Đến nay thân, khẩu, ý của Ngài đều đã thanh tịnh nên Ngài đã ngộ, vì
thế ta mới nói rằng Ngài tịch diệt. Bàn thờ Ngài ở kia, có thể bỏ đi được,
nhưng thôi hãy cứ để đấy, không phải là để cúng Ngài, mà chính là để nêu cái
gương tu hành cho mọi người.”
Người nghe chuyện,
ai ai cũng yên lặng cúi đầu, nghiền ngẫm về sự tu hành. Từ ngày đó, trong chùa,
không ai bảo ai, người ta chỉ nói vừa đủ, những mong đến lúc nào đó tịnh được
khẩu nghiệp, thoát khỏi sinh tử luân hồi như vị bồ-tát đóng vai anh câm làm việc
sau chùa.
“Là con Phật, nếu
không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời
ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những
gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức,
đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét