Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2014

Công Đức và Phước Đức

Trước tiên phải nhận biết “công đức” là gì. Chỗ này không thể hàm hồ được. Chúng ta thấy tại rất nhiều đạo tràng có một thùng bên trên viết “Thùng công đức”, liền cho rằng mình chỉ cần để tiền vào đó sẽ có công đức. Vậy là sai, không hề có công đức nào cả. Lương Võ Đế trong lịch sử Trung Quốc nổi tiếng là một Phật giáo đồ kiên thành, là đại hộ pháp của nhà Phật. Khi còn đương chức, ông đã tạo dựng bốn trăm tám mươi đạo tràng, ngày nay chúng ta gọi là tự viện, quy mô đều rất lớn. Ông luôn khích lệ nhân dân xuất gia, xem thấy người xuất gia thì rất hoan hỉ. Cho nên ông độ chúng mấy trăm ngàn người, chính ông cũng cảm thấy kiêu ngạo khi làm được công đức lớn như vậy. Lúc này, Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư thiền tông, đến Trung Quốc. Ngài nghe nói quốc vương của Trung Quốc nhiệt tâm hộ pháp nên đương nhiên phải bái kiến. Lương Võ Đế cũng rất vui mừng tiếp kiến vị cao tăng từ Ấn Độ. Khi gặp mặt, Lương Võ Đế kể với Đạt Ma tổ sư về công đức hộ pháp của mình. Sau khi nói xong, ông thỉnh giáo Đạt Ma tổ sư: “Công đức của tôi có lớn không?”. Đạt Ma tổ sư thành thật trả lời: “Không có công đức gì”. Lương Võ Đế nghe rồi, lòng rất không vui. Sau đó Lương Võ Đế không hộ pháp ông, làm cho ông phải đến chùa Thiếu Lâm quay mặt vào vách chín năm, để đời một Huệ Khả.

Lời của Đạt Ma tổ sư có đúng không? Đúng. Công đức cùng phước đức không như nhau. Giả như Lương Võ Đế hỏi: “Phước đức của tôi có lớn không?”, thì Đạt Ma tổ sư nhất định trả lời: “Thật lớn! thật lớn! Ông tu phước báu thật quá lớn”. Phước đức cùng công đức rõ ràng có khác biệt. Công đức phải do chính mình tu hành. Chúng ta nêu một thí dụ đơn giản, trì giới có công, cái công mà bạn trì giới là công phu, bạn trì giới có công phu. Được định chính là đức. Cho nên công là tu nhân, đức là chứng quả, bạn được định mới gọi là công đức. Nếu bạn giữ giới luật rất tốt, rất nghiêm, nhưng không thể được định, thì trì giới của bạn chỉ là phước, không phải công. Bạn trì giới chưa có công phu thì chỉ có được phước báu. Nhân giới quả định thì giới luật này mới gọi là có công phu.

Vì sao có người trì giới được định, còn một số người trì giới không thể được định? Do đúng pháp hay không đúng pháp. Tu học đúng pháp có công, tu học không đúng pháp không có công. Điểm này các vị đồng tu, không luận tại gia xuất gia, đều phải tường tận. Vì vậy nhất định phải thủ pháp, vì thủ pháp mới tương ưng.

Lục tổ Đại sư Huệ Năng đặc biệt dạy người trì giới, một mực dặn bảo chúng ta “Nếu là người chân chánh tu hành thì không thấy lỗi thế gian”. Giới luật của ta trì rất tốt, xem thấy người khác không trì giới liền sanh tâm khinh mạn, xem thường, còn chính mình lại cống cao ngã mạn. Trì giới như thế được kết quả gì? Người ta trì giới thì được định, từ định khai huệ; ta trì giới ra cống cao ngã mạn thì làm gì có được công phu.

Thế nhưng sự trì giới đó có tốt không? Tốt. Sự trì giới đó mang lại phước đức, chính là tu phước hữu lậu trong tam giới sáu đường. Tôi không nói phước báu nhân thiên, tôi nói phước báu hữu lậu trong sáu đường. Vì sao? Dù họ không được thân người mà chỉ được thân súc sanh, thân ngạ quỷ thì cũng đều hưởng phước. Bạn thấy đường súc sanh, nếu có phước báu lớn vẫn được cưng chiều chăm sóc chu đáo, con người chúng ta làm sao có thể sánh bằng. Có những con vật cưng được người cả nhà hầu hạ, xem nó như bảo bối, trong khi chúng ta thì chẳng ai quan tâm. Loại súc sanh đó đời trước đã từng tu phước nên mới được như vậy.

Phước báu trong cõi quỷ cũng không nhỏ. Chúng ta xem thấy rất nhiều ở nhân gian Trung Quốc cúng bái những quỷ thần này. Cạnh Cư Sĩ Lâm dường như có một cái miếu Đại Bá Công, đó chính là cõi quỷ có phước báu. Sơn thần, thổ địa, thành hoàng đều là cõi ngạ quỷ đã tu phước nên ở trong cõi quỷ hưởng phước.

Cho nên Phật dạy chúng ta nhất định phải tu tích công đức. Trong công đức tự nhiên có phước đức. Trong phước đức không có công đức. Công đức phải tu bằng cách nào? Kinh này đích thực là đệ nhất kinh mà Thế Tôn đã nói suốt bốn mươi chín năm. Kinh Hoa Nghiêm vẫn là hàng kế sau kinh này. Đề kinh nêu rõ: “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác”, hay nói cách khác, việc tu học của chúng ta phải tương ưng với “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác”, đó chính là công đức. Chúng ta trì giới, ngay trong giới được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, thì giới của chúng ta liền có công. Tâm thanh tịnh là định, tu định có công, khai trí tuệ chính là đức. Tu định nếu không thể khai trí tuệ thì cái định đó chỉ là phước báu. Thế nhưng các vị nên biết, phước của định cùng phước của giới không như nhau. Phước của định lớn hơn rất nhiều.

Phước của giới trong ba đường đều được hưởng, chỉ có địa ngục không được hưởng. Còn phước của định thì không ở ác đạo, chí ít phải từ trời Dạ Ma trở lên. Bạn tu định, trong định không thể khai trí tuệ, thì phước báu từ trời Dạ Ma mãi đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều là phước báu của định. Đó là tu định mà được phước báu, không phải công đức. Tu định muốn được công đức phải khai trí tuệ. Khai trí tuệ chắc chắn siêu việt tam giới, vĩnh thoát luân hồi, đó là tu định có công. Cho nên chúng ta phải hiểu công đức một cách rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo.

Chúng ta xem thấy người ta tu tích công đức thường khởi lên ý niệm đố kỵ; thấy người khác tốt hơn mình liền khó chịu, bực bội, nghĩ mọi cách chướng ngại, thậm chí còn nghĩ cách phá hoại, tội lỗi này rất lớn.

Bồ Tát tu tích công đức
Bồ tát thị hiện ngay trong quần chúng xã hội, nam nữ già trẻ. Việc họ làm chúng ta thường gọi là việc từ thiện xã hội. Thế nhưng Bồ tát cùng người thế gian chúng ta làm việc từ thiện xã hội lại có chút khác biệt. Các vị tỉ mỉ quan sát mới có thể thấu hiểu. Bồ tát tu tích làm những việc từ thiện, sau cùng nhất định còn giúp họ phá mê khai ngộ, đó chính là đã làm công đức. Nếu chỉ làm việc từ thiện xã hội, không dạy họ phá mê khai ngộ, thì là thuộc về phước đức.

Vì sao đối với chúng sanh, trước tiên phải dùng từ thiện cứu tế để giúp đỡ? Đó là Tứ Nhiếp pháp, một phương tiện nhiếp thọ chúng sanh của Phật. Trên kinh, Phật cũng tường tận dạy chúng ta “Tiên dĩ lợi dục câu, hậu linh nhập Phật trí”. Bạn thấy Phật thật từ bi đến tột đỉnh. Bạn cứ thử bảo người thế gian đến học Phật, họ sẽ lắc đầu không đến; nhưng bạn mời họ đến ăn cơm thì họ rất vui mừng lập tức liền nhận lời. Ăn cơm xong bạn mới bảo họ học Phật, như thế dễ dàng hơn, vì đã nhận ân huệ rồi, không nghe sẽ rất khó coi. Cho nên nhà Phật dùng loại từ thiện này: bố thí, ái ngữ, đồng sự, lợi hành đều là để nhiếp thọ chúng sanh. Sau đó nói rõ cho họ chân tướng của vũ trụ nhân sanh, chân tướng chính chúng ta cùng hoàn cảnh sinh hoạt của mình. Khi hiểu rõ chân tướng thì họ sẽ quay đầu là bờ.

Nếu chấp tướng mà làm, như thế vẫn là tu phước. Còn nếu rời tướng, không chấp tướng, tam luân thể không, đó là lấy lợi ích chúng sanh làm công đức. Do nhân giới được định, là công đức tu học của chính mình. Hai loại công đức này đều sẽ bị người đố kỵ, chướng ngại. Cho nên khi chúng ta tu tích phải có trí tuệ cao độ, phải có phương tiện khéo léo. Địa vị của chúng ta càng thấp càng tốt, đối đãi với bất cứ người nào cho dù là người phê bình, hủy báng, phá hoại chúng ta, chúng ta cũng phải dùng tâm chân thành cung kính đối đãi với họ, làm cho họ dần dần cảm động, có thể giác ngộ quay đầu. Chúng ta đem những ác duyên chuyển biến thành thiện duyên, đem những việc ác chuyển thành công đức chân thật, đó gọi là tùy hỉ. Chúng ta nhất định phải làm từ chính bản thân mình; trở thành tấm gương tốt mới có thể giáo hóa chúng sanh.

Trích từ Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ - phần 20
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét